SGK Lịch Sử 11 - Bài 21. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX

  • Bài 21. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX trang 1
  • Bài 21. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX trang 2
  • Bài 21. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX trang 3
  • Bài 21. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX trang 4
  • Bài 21. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX trang 5
  • Bài 21. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX trang 6
  • Bài 21. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX trang 7
  • Bài 21. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX trang 8
  • Bài 21. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX trang 9
  • Bài 21. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX trang 10
  • Bài 21. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX trang 11
  • Bài 21. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX trang 12
  • Bài 21. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX trang 13
PHONG TRÀO YÊU Nước CHỐNG PHẤP CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM cuối THỂ KÌ XIX
Sau cuộc phản công quân Pháp tại Kinh thành Huế thất bại, một phong trào khởi nghĩa vũ trang mới dưới danh nghĩa Cần vương (giúp vua cứu nước) đã diễn ra sôi nổi, kéo dài đến năm 1896. Bên cạnh đó, còn có những cuộc đấu tranh tự vệ của nông dân và nhân dân các dân tộc thiểu số vùng núi, tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa Yên Thế.
I - PHONG TRÀO CẦN VƯONG BÙNG Nổ
Q Cuộc phản công quân Pháp của phái chủ chiến
tại Kinh thành Huê và sự bùng nô phong trào cần vương
Với các hiệp ước Hácmãng và Patơnốt, thực dân Pháp đã hoàn thành về cơ bản cuộc xâm lược Việt Nam. Chúng bắt đầu xúc tiến việc thiết lập chế độ bảo hộ và bộ máy chính quyền thực dân trên phần lãnh thổ Bấc Kì và Trung Kì. Nhưng chúng đã vấp phải sự kháng cự của một số quan lại, văn thân, sĩ phu yêu nước và nhân dân các địa phương, cả trong Nam, ngoài Bắc. Phong trào phản đối hai hiệp ước 1883 và 1884 diễn ra rất sôi nổi. Nhiều toán nghĩa quân hoạt động mạnh ở các vùng xung quanh Hà Nội như Bắc Ninh, Sơn Tây, Hải Dương..., khiến cho quân Pháp ăn không ngon, ngủ không yên.
»
Đựa vào phong trào kháng chiến của nhân dân, phái chủ chiến trong triều đình Huế, đại diện là Tôn Thất Thuyết (Thượng thư Bộ Binh), mạnh tay hành động.
Họ phế bỏ những ông vua có biểu hiện thân Pháp, đưa Ưng Lịch còn nhỏ tuổi lên ngôi (hiệu là Hàm Nghi), trừ khử những người không cùng chính kiến, bô sung thêm lực lượng quân sự, bí mật liên kết vổi sĩ phu, văn thân các nơi, xây dựng hệ thông sơn phòng và tuyến đường thượng đạo, ra sức tích trữ lương thảo và vũ khí để chuẩn bị chiến đấu...
Trước tình hình đó, thực dân Pháp phải tăng thêm lực lượng quân sự, siết chặt bộ máy kìm kẹp và tìm mọi cách để loại phái chủ chiến ra khỏi triều đình. Biết đượcâm mưu của Pháp, đêm mồng 4 rạng sáng 5 - 7 - 1885, Tôn Thất Thuyết và lực lượng chủ chiến đã ra tay trước.
Trong khi viên Toàn quyền về chính trị và quân sự Pháp tại Việt Nam là Đờ Cuốc-xi đang tổ chức yến tiệc tại toà Khâm sứ Pháp ở Huế, Tôn Thất Thuyết đã hạ lệnh cho các đạo quân của mình tấn công quân Pháp ở đồn Mang Cá và toà Khâm sứ. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, song do chuẩn bị vội vã, thiếu chu đáo nên sức chiến đấu của quân ta nhanh chóng giảm sút. Rạng sáng 5-7, quân Pháp phản công. Chúng cướp bóc và tàn sát nhân dân ta vô cùng man rợ.
Tôn Thất Thuyết phải đưa vua Hàm Nghi ra khỏi Hoàng thành, rồi chạy ra sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị). Ngày 13	7 - 1885, Tôn Thất Thuyết lấy danh vua
Hàm Nghi xuống chiếu Cần vương, kêu gọi văn thân, sĩ phu và nhân dân cả nước đứng lên vì vua mà kháng chiến.
Hình 59. Vua Hàm Nghi	Hình 60. Tôn Thất Thuyết
(1872 -1943)	(1835-1913)
Chiếu Cần vương đã nhanh chóng thổi bùng ngọn lửa yêu nước trong nhân dân, tạo thành một phong trào vũ trang chống Pháp sôi nổi, liên tục kéo dài hơn 10 năm mới chấm dứt.
Phong trào cần vương bùng nổ trong hoàn cảnh nào ?
I Các giai đoạn phát triển của phong trào cần vương
Phong trào Cần vương phát triển qua 2 giai đoạn :
Từ năm 1885 đến năm 1888
Thời gian này, phong trào được đặt dưới sự chỉ huy của Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết, với hàng trăm cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ nổ ra trên phạm vi rộng lớn, nhất là ở Bắc Kì và Trung Kì.
Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng ở Bình Định, cùng nổi dậy có Bùi Điền, Nguyễn Đức Nhuận, Đào Doãn Địch, Nguyễn Duy Cung... ; Trần Văn Dự, Nguyễn Duy Hiệu, Phan Thanh Phiến nổi lên ở Quảng Nam ; Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân nổi dậy ở Quảng Ngãi ; Trương Đình Hội, Nguyễn Tự Như ở Quảng Trị ; Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân ở Quảng Bình ; Lê Ninh, Phan Đình Phùng, Cao Thắng ở Hà Tình ; Nguyễn Xuân ôn, Lê Doãn Nhạ ở Nghệ An. Tại Thanh Hoá có các đội nghĩa quân của Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Tông Duy Tân, Cao Điển... Vùng đồng bằng Bắc Kì có khởi nghĩa của Tạ Hiện (Thái Bình), Nguyễn Thiện Thuật (Hưng Yên). Tại vùng Lạng Sơn, Bắc Giang có khỏi nghĩa của Hoang Đình Kinh (Cai Kinh); vùng Tây Bắc có các phong trào của Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Văn Giáp, Đê' Kiều, Đốc Ngữ, Đèo Văn Thanh, cầm Văn Toa...
Lúc này, đi theo Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết có nhiều văn thân, sĩ phu và tướng lĩnh khác như : Trần Xuân Soạn, Tôn Thất Đàm, Tôn Thất Thiệp (2 con của Tôn Thất Thuyết), Phạm Tường, Trần Văn Định... Bộ chỉ huy của phong trào đóng tại vùng rừng núi phía tây hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
Cuối năm 1888, do có sự chỉ điểm của Trương Quang Ngọc, vua Hàm Nghi rơi vào tay giặc. Nhà vua đã cự tuyệt mọi sự dụ dỗ của Pháp, chịu án lưu đày sang An-'giê-ri (Bắc Phi).
Từ năm 1888 đến năm 1896
Ớ giai đoạn này, không còrí sự chỉ đạo của triều đình, nhưng phong trào vẫn tiếp tục phát triển, quy tụ dần thành các trung tâm lớn và ngày càng lan rộng.
Trước những cuộc hành quân càn quét dữ dội của thực dân Pháp, phong trào ở vùng đồng bằng ngày càng bị thu hẹp và chuyển lên hoạt động ở vùng trung du và miền núi. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh do Tống Duy Tân và Cao Điển
Đóng Ván*
Phong Thổ
Bác Son
AVănChỗnì
Phú Thọ"
Thanh Hoố*
>	...	L.
NỗngCống-^-
S Tên XJ' „ ThânlìMT
XẠnhSồnị
(Nghi Xuân ^HrHâTĩnh
ỉuảng Trạch .Bó Trạch MĐỔngHđ
;&0 Linh
Tân Sở ( (13-7-1885)’
Quảng Ngãi
ừuy Hoà
\ CAM - PU-c
'Hà Tiên
CỗnLồn
Hình 61. Lược đổ những địa điểm diễn ra các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần vương (1885 - 1896)
chỉ huy ở vùng rừng núi phía tây tỉnh Thanh Hoá ; khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo ở vùng rừng núi phía tây tỉnh Hà Tĩnh.
Khi tiếng súng kháng chiến đã lặng im trên núi Vụ Quang (Hương Khê - Hà Tĩnh) vào cuối năm 1895 - đầu năm 1896, phong trào Cần vương coi như chấm dứt.
(?) Tóm lược diễn biến 2 giai đoạn của phong trào cần vương chống Pháp cuối thế kỉ XIX và rút ra đặc điểm của-mỗi giai đoạn.
II - MỘT SỐ CUỘC KHỞI NGHĨA TIÊU BIỂU TRONG PHONG TRÀO CẨN VUONG VÀ PHONG TRÀO ĐÂU TRANH TỤ VỆ cuối THÊ KỈ XIX
1892)
Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883 -
Phủ Lạng Thượng
CĂN cứ HA/SÕNG
'HAI DƯƠN
Mĩ Háo
CẮN Cứ BÃ! SẬY
'ỉ> HƯNG YÊN'
Hình 62. Lược đồ địa bàn hoạt động của nghĩa quân Bãi Sậv
'ra Nơi
Vùng căn cứ cuộc khởi nghĩa
Nơi hoạt động của nghĩa quân
Bãi Sậy là vùng lau sậy rậm rạp thuộc các huyện Văn Lâm, Văn Giang, Khoái Châu, Yên Mĩ của tỉnh Hưng Yên. Trong những năm 1883 - 1885, tại đây có phong trào kháng Pháp do Đinh Gia Quế lãnh đạo. Địa bàn hoạt động của nghĩa quàn chỉ hạn chế trong vùng Bãi Sậy. Từ năm 1885, vai trò lãnh đạo thuộc về Nguyễn Thiện Thuật.
Dựa vào vùng đầm, hồ, lau lách ở khu Bãi Sậy, nghĩa quân đào hào, đắp luỹ, đặt nhiều hầm chông, cạm bẫy. Từ đây, nghĩa quân toả ra hoạt động ở vùng đồng bằng, khống-chế các tuyến giao thông đường bộ Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Nam Định, Hà Nội - Bắc Ninh và đường thuỷ trên sông Thái Bình, sông Hồng, sông Đuống...
Ngoài căn cứ Bãi Sậy, nghĩa quân còn xây dựng căn cứ Hai Sông ở Kinh Môn (Hải Dương) do Đốc Tít (Nguyễn Đức Hiệu) phụ trách.
Nghĩa quân Bãi Sậy không tổ chức thành những đội quân lớn mà phiên chê' thành những phân đội nhỏ khoảng từ 20 đến 25 người, tự trang bị vũ khí và trà trộn vào dân để hoạt động.
Từ năm 1885 đến cuối năm 1887, nghĩa quân đẩy lui nhiều cuộc càn quét của Pháp ở cả vùng Văn Giang, Khoái Châu và vùng căn cứ Hai Sông. Nhiều trận đánh ác liệt diễn ra trên địa bàn các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Thái Bình, Quảng Yên. Có trận, quân ta tiêu diệt tới 40 tên địch, bắt sống chỉ huy.
Từ nãm 1888, nghĩa quân bước vào giai đoạn chiến đấu quyết liệt. Thực dân Pháp tăng cường binh lực, cho xây dựng hệ thống đồn bốt dày đặc và thực hiện chính sách “dùng người Việt trị người Việt” để cô lập nghĩa quân ở căn cứ Bãi Sậy. Nghĩa quân chiến đấu rất dũng cảm, nhưng lực lượng ngày càng giảm sút và rơi dần vào thế bị bao vây, cô lập. Cuối cùng, Nguyễn Thiện Thuật phải lánh sang Trung Quốc (7 - 1889) và mất tại đó vào. năm 1926.
Cuối tháng 7 - 1889, căn cứ Hai Sông cũng bị Pháp bao vây. Đốc Tít chỉ huy nghĩa quân chống trả quyết liệt, nhưng bị đánh bật khỏi đại bản doanh Trại Sơn. Trong thề' cùng, ông phải ra hàng giặc (12 - 8 - 1889), sau bị chúng đày sang An-giê-ri.
Hình 63. Nguyễn Thiện Thuật (1844 -1926)
Những tướng lĩnh còn lại cố duy trì cuộc khởi nghĩa thêm một thời gian. Đến năm 1892, họ về với nghĩa quán Đề Thám ở Yên Thế.
Trình bày diễn biến chính của khởi nghĩa Bãi Sậy.
I Khởi nghĩa Ba Đình (1886 - 1887)
Cứ điểm Ba Đình được xây dựng ở ba lặng Mậu Thịnh, Thượng Thọ, Mì Khê (thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá), do Phạm Bành và Đinh Công Tráng chỉ huy.
Tại đây, nghĩa quân đã xây dựng một căn cứ chông Pháp vững chắc. Bao bọc xung quanh căn cứ là luỹ tre dày đặc và một hệ thông hào rộng, rồi đến lớp thành đất cao đến 3 mét, chân thành rộng từ 8 mét đến 10 mét, trên thành có các lỗ châu mai. Phía trong thành có hệ thông giao thông hào dùng để vận động và tiếp tế khi chiến đấu. Ó những nơi xung yếu đều có công sự vững chắc. Các ngôi đình của ba làng được biến thành các chốt đóng quân, nốì vổi nhau bằng hệ thông giao thông hào, có thể hỗ trợ cho nhau.
Được sự ủng hộ của nhân dân địa phương, cứ điểm Ba Đình được xây dựng và hoàn thành chỉ trong 1 tháng.
Ngoài Ba Đình là căn cứ chính, còn có một số căn cứ hỗ trợ ở ngoại vi như Phi Lai, Quảng Hoá, Mã Cao... do Cao Điển, Trần Xuân Soạn, Hà Văn Mao đứng đầu ; trong đó căn cứ Mã Cao có tầm quan trọng đặc biệt, là nơi nghĩa quân rút về đóng giữ khi căn cứ Ba Đình bị phá vỡ.
Nghĩa quân Ba Đình có khoảng 300 người, bao gồm cả người Kinh, người Thái, người Mường. Họ tự trang bị các loại vũ khí thông thường như : súng hoả mai, gươm, giáo, cung, nỏ. Đông đảo nhân dân địa phương tham gia vào các đội vận chuyển lương thực, nuôi quân, tải thương... Hoạt động chủ yếu của nghĩa quân là chặn đánh các đoàn xe vận tải của địch và tập kích các toán lính trên đường hành quân.
Hình 64. Lược đổ căn cứ Ba Đình
Để đối phó lại, tháng 12 - 1886, thực dân Pháp tập trung 500 quân, mở cuộc tấn công vào căn cứ Ba Đình, nhưng thất bại.
Ngày 6 - 1 - 1887, Pháp lại huy động khoảng 2 500 quân, dưới sự chỉ huy của Đại tá Brít-xô, có pháo binh yểm trợ, bao vây căn cứ, rồi lấn dần từng bước.
Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt. Cả hai bên đều bị thương vong rất nhiều. Quân Pháp dùng vòi rồng phun dầu đốt cháy các luỹ tre, cùng lúc tập trung đại bác bắn dồn dập vào căn cứ. Trước sức mạnh áp đảo của giặc, lực lượng nghĩa quân bị tiêu hao rất nhiều. Đêm 20 - 1 - 1887, họ phải mở đường máu rút lên Mã Cao. Sáng 21-1, chiếm được căn cứ, thực dân Pháp điên cuồng đốt phá và sau đó ra lệnh xoá tên ba làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh, Mĩ Khê trên bản đồ hành chính.
Nghĩa quân rút về Mã Cao, cầm cự được một thời gian, rồi bị đẩy lên miền Tây Thanh Hoá và sáp nhập với đội nghĩa quân của cầm Bá Thước.
Trong cuộc chiến đấu này, nhiều thủ lĩnh nghĩa quân đã hi sinh như Nguyễn Khế, Hoàng Bật Đạt ; người phải chạy sang Trung Quốc như Trần Xuân Soạn ; người phải tự sát như Phạm Bành, Hà Vãn Mao. Đinh Công Tráng thoát khỏi tay 'giặc và tiếp tục gây dựng lại phong trào. Nhưng đến mùa hè năm 1887, ông cũng bị giặc Pháp bắt và giết hại. Đến đây, khởi nghĩa Ba Đình hoàn toàn tan rã.
Mô tả cấu trúc của căn cứ Ba Đình.
Trình bày diễn biến của khởi nghĩa Ba Đình.
Q Khởi nghĩa Hương Khê (1885 - 1896)
Hình 65. Phan Đình Phùng (1847 -1895)
Hương Khê là một huyện miền núi phía tây tinh Hà Tĩnh, nơi đây có đại bản doanh của một cuộc khởi nghĩa lớn, quy mô lan rộng cả 4 tỉnh Bắc Trung Kì, kéo dài từ năm 1885 đến năm 1896.
Lãnh tụ cuộc khởi nghĩa là Phan Đình Phùng.
Phan Đình Phùng sinh năm 1847, quê ở làng Đông Thái (nay thuộc xã Tùng Ầnh), Đức Thọ, Hà Tĩnh. Năm 1877, ông thi đỗ Đình nguyên Tiến sĩ, từng làm quan Ngự sử trong triều đình. Với bản tính cương trực, ông phản đốì việc Tôn Thất Thuyết phế bỏ Dục Đức, lập Hiệp Hoà làm vua, vì vậy đã bị cách chức đuổi về quê. Tuy vậy, khi Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra vùng Hà Tĩnh, ông vẫn đến yết kiến và được giao trọng trách tổ chức phong trào chông Pháp ngay tại quê,nhà.
Từ năm 1885 đến năm 1888 là giai đoạn chuẩn bị lực lượng, xây dựng cơ sở chiến đấu của nghĩa quân. Được Phan Đình Phùng giao nhiệm vụ, Cao Thắng đã tích cực chiêu tập binh sĩ, trang bị, huấn luyện và xây dựng căn cứ thuộc vùng rừng núi các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Ông đã cùng các thợ rèn làng Trung Lương và Vân Chàng (Đức Thọ) nghiên cứu chế tạo thành cồng súng trường theo mẫu của Pháp.
Từ năm 1888 đến năm 1896, nghĩa quân bước vào giai đoạn chiến đấu quyết liệt.
Sau một thời gian ra Bắc, tìm cách liên lạc với các sĩ phu, văn thân, Phan Đình Phùng trở về Hà Tĩnh, cùng Cao Thắng trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa.
Hình 66. Lược đồ khởi nghĩa Hương Khê
Nghĩa quân Hương Khê được phiên chế thành 15 quân thứ, đặt dưới sự chỉ huy của những tưổng lĩnh tài ba. Đại bản doanh cuộc khởi nghĩa đặt tại núi Vụ Quang.
Từ đầu năm 1889, nghĩa quân đẩy mạnh hoạt động và liên tục mở các cuộc tập kích, đẩy lui nhiều cuộc hành quân càn quét của địch.
Nhiều trận đánh nổi tiếng đã diễn ra, như trận tấn công đồn Trường Lưu (5 - 1890), trận tập kích thị xã Hà Tĩnh (8 - 1892) giải phóng 700 tù chính trị... Nhưng trong trận tấn công đồn Nu (Thanh Chương) trên đường tiến quân về tỉnh lị Nghệ An, Cao Thắng đã bị trúng đạn và hi sinh năm 29 tuổi. Đây là một tổn thất lớn của nghĩa quân.
Trước sức mạnh áp đảo của giặc, nghĩa quân vãn kiên trì chiến đấu. Ngày 17—10—1894, họ giành được thắng lợi lớn trong trận phục kích địch ở núi Vụ Quang, hàng chục tên giặc đã bị tiêu diệt.
Sau trận đánh này, đội quân tay sai của Pháp do Nguyễn Thân chỉ huy tiếp tục tổ chức cuộc vây hãm núi Vụ Quang. Nghĩa quân bị triệt đường tiếp tế, quân số giảm sút nhiều. Trongsmột trận ác chiến, Phan Đình Phùng bị thương nặng và hi sinh ngày 28 - 12 - 1895. Năm 1896, những thủ lĩnh cuối cùng của cuộc khởi nghĩa lần lượt rơi vào tay Pháp.
Cuộc khởi nghĩa Hương Khê sau hơn 10 năm tồn tại đến đây kết thúc. Đây là cuộc khỏi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần vương chống Pháp cuối thế kỉ XIX.
Cuộc khởi nghĩa bị thất bại bởi nhiều nguyên nhân, trong đó có những hạn chế về đường lối, phương pháp tổ chức và lãnh đạọ.
(^) - Tóm lược các giai đoạn phát triển của khởi nghĩa Hương Khê.
- Tại sao khởi nghĩa Hương Khê được coi là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần vương ?
Q Khởi nghĩa Yên Thế (1884 - 1913)
Ngoài các cuộc khởi nghĩa nổ ra dưới ngọn cờ Cần vương, vào những năm cuối thế kỉ XIX còn xuất hiện nhiều CUỘC khởi nghĩa của nông dân và nhân dân các dân tộc ở miền núi chống chính sách cướp bóc và bình định quân sự của thực dân Pháp. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế.
Yên Thế là vùng bán sơn địa ồ phía tây bắc tỉnh Bắc Giang. Vào giữa thê kỉ XIX, do tình trạng suy sụp của nền nông nghiệp nước ta, tại đây đã hình thành những xóm làng của nông dân nghèo từ các nơi tụ họp về. Họ nương tựa vào nhau để sinh sông và chông lại các thế lực từ bên 'ngoài đe doạ.
Khi thực dân Pháp chiếm Bắc Kì, chúng đưa quân lên bình định cả vùng Yên Thế. Để bảo vệ cuộc sống của mình, nông dân ở đây đã đứng lên tự vệ.
Hoạt động của nghĩa quân Yên Thế có thể chia làm 4 giai đoạn :
G7ữ/ đoạn từ năm 1884 đến năm 1892
Tại vùng Yên Thế có hàng chục toán quân chống Pháp hoạt động riêng lẻ, đặt dưới sự chỉ huy của các thủ lĩnh khác nhau. Thủ lĩnh có uy tín nhất lúc đó là Đề Nắm đã lãnh đạo nghĩa .quân đẩy lui nhiều trận càn quét của quân Pháp vào khu vực Cao Thượng, Hố Chuối. Đến năm 1891, nghĩa quân làm chủ một vùng rộng lớn và mở rộng hoạt động sang Phủ Lạng Thương (vùng thành phố Bắc Giang ngày nay).
Trước những đợt tấn công, càn quét mới của giặc, nghĩa quân phải rút dần Ịên vùng Bắc Yên Thế xây dựng, củng cố hệ thống công sự phòng thủ.
Tháng 3 - 1892, Pháp huy động khoảng 2 200 quân, gồm nhiều binh chủng ồ ạt tấn công vào căn cứ của nghĩa quân. Lực lượng nghĩa quân bị tổn thất nặng, nhiều ngu'ò bị địch bắt và giết hại, một số phải ra hàng. Đề Nắm bị sát hại vằo tháng 4 - 1892.
Giai đoạn từ năm 1893 đến năm 1897
Lúc này, Đề Thám (Hoàng Hoa Thám) trở thành thủ lĩnh tối cao của cuộc khởi nghĩa.
Hoàng Hoa Thám tên thật là Trương Văn Thám, quê ở Tiên Lữ (Hưng Yên), theo gia đình lên làm ăn ỗ Sơn Tây, sau sang Yên Thế (Bắc Giang) sinh sông.
Sau khi Đề Nắm hi sinh, ông tập hợp những toán nghĩa binh còn sót lại, mồ rộng địa bàn hoạt động.
Hình 67. Lược đồ khởi nghĩa Yên Thể'
Trong bối cảnh phong trào kháng chiến cả nước bị đàn áp dữ dội, nhiều cuộc khởi nghĩa đã thất bại,
Đề Thám phải tìm cách giảng hoằ với Pháp để có thời gian củng cố lực lượng. Tháng 10 - 1894, theo thoả thuận giữa hai bên, quân Pháp phải rút khỏi Yên Thế, Đề Thám được cai quản bốn tổng : Yên Lễ, Mục Sơn, Nhã Nam, Hữu Thượng. Nhưng cuộc hoà hoãn kéo dài chưa được bao lâu thì Pháp đã bội ước, lại tổ chức tấn công (11- 1895). Nghĩa quân phải chia nhỏ thành từng toán, trà trộn vào dân để hoạt động.
Nhằm bảo toàn lực lượng, lại biết được ý đồ của
Hình 68. Hoàng Hoa Thám (1858-1913)
Pháp đang muốn chấm dứt xung đột để tiến hành khai thác thuộc địa, Đề Thám xin giảng hoà lần thứ hai (12 - 1897). Để được hoà hoãn lần này, Đề Thám phải tuân thủ những điều kiện ngặt nghèo do Pháp đặt ra, như nộp khí giới, thường xuyên trình diện chính quyền thực dân. Bề ngoài, Đề Thám tỏ ra phục tùng, nhưng bên trong thì ngấm ngầm chuẩn bị lực lượng chống Pháp.
Giai đoạn từ năm 1898 đến năm 1908
Tranh thủ thời gian hoà hoãn kéo dài, Đề Thám cho nghĩa quân vừa sản xuất, vừa tích cực luyện tập quân sự tại đồn điền Phồn Xương. Đội quân của ông tuy không đông (khoảng 200 người) nhưng rất tinh nhuệ, thiện chiến. Căn cứ Yên Thế trở thành nơi tụ hội của những nghĩa sĩ yêu nước từ khắp nơi kéo về (từ Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá, Hưng Yên, Hải Dương...).
Giai đoạn từ năm 1909 đến năm 1913
Sau vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội năm 1908, thực dân Pháp quyết định mở cuộc tấn công nhằm tiêu diệt bằng được phong trào nông dãn Yên Thế. Nghĩa quân trải qua những tháng ngày gian khổ, phải di chuyển liên tục từ nơi này sang nơi khác. Nhiều thủ lĩnh đã hi sinh, một số phải ra hàng. Đến tháng 2 - 1913, khi Đề Thám bị sát hại, phong trào tan rã.
Tóm lược các giai đoạn phát triển của cuộc khởi nghĩa Yên Thế từ năm 1884 đến năm 1913.
Câu hỏi và bài tập
Cách tổ chức và chiến đấu của nghĩa quân Bãi Sậy cồ những điểm gì khác với nghĩa quân Ba Đình ?
Lập bảng hệ thống kiến thức về các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu trong phong trào Cần vương theo mẫu sau :
STT
Tên cuộc khởi nghĩa, thời gian, người lãnh đạo
Hoạt động nổi bật
Ý nghĩa và bái học kinh nghiệm
1
Khởi nghĩa Ba Đinh (1886- 1887)
Phạm Bành,
Đinh Công Tráng... ■
Xây dựng công sự kiên cố, có cấu trúc độc đáo.
Trận đánh nổi tiếng nhất diễn ra vào tháng 1 - 1887.
Tiêu hao sinh lực địch, làm chậm quá trình bình định vùng Bắc Trung Ki của thực dân Pháp.
Để lại nhiều bài học kinh nghiệm vé tô’ chức nghĩa quân và xây dựng căn cứ địa kháng chiến.
2
Khởi nghĩa Yên Thế có nhưng đặc điểm nào khác so với các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần vương chống Pháp ?