SGK Tin Học 10 - Bài đọc thêm 7. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA INTERNET

  • Bài đọc thêm 7. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA INTERNET trang 1
  • Bài đọc thêm 7. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA INTERNET trang 2
  • Bài đọc thêm 7. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA INTERNET trang 3
  • Bài đọc thêm 7. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA INTERNET trang 4
  • Bài đọc thêm 7. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA INTERNET trang 5
Bài đọc thêm 7
sự HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIÊN của internet
Thời kì phôi thai
Năm 1969 Bộ Quốc phòng Mĩ đã xây dựng dự án ARPANET để nghiên cứu lĩnh vực mạng, theo đó các máy tính được liên kết với nhau và sẽ phải có khả năng tự định đường truyền tin ngay sau khi một phần mạng đã bị phá huỷ.
Năm 1972 trong một hội nghị quốc tế về truyền thông máy tính, Bob Kahn đã trình diễn mạng ARPANET, liên kết 40 máy thông qua các bộ xử lí giao tiếp giữa các trạm cuối (Terminal Interface Processor - TIP). Cũng năm này nhóm InterNET Working Group (INWG) do Vinton Cerf làm chủ tịch ra đòi nhằm đáp ứng nhu cầu thiết lập giao thức bắt tay (agreed-upon). Năm 1972 cũng là năm Ray Tomlinson đã phát minh ra E-mail để gửi thông điệp trên mạng. Từ đó đến nay, E-mail là một trong những dịch vụ được dùng nhiều nhất.
Năm 1973, một số trường đại học của Anh và của Na Uy kết nối vào ARPANET. Cũng vào thời gian đó ở đại học Harvard, Bob Metcalfe đã phác hoạ ra ý tưởng về Ethernet (một giao thức trong mạng cục bộ).
Tháng 9/1973 Vinto Cerf và Bob Kahn đề xuất những ý tưởng cơ bản của Internet. Đó chính là những nét chính của giao thức TCP/IP.
Năm 1974 BBN đã xây dựng giao thức ứng dụng Telnet cho phép sử dụng máy tính từ xa.
Năm 1976 phòng thí nghiệm của hãng AT&T phát minh ra dịch vụ truyền tệp qua mạng FTP.
Năm 1978 Tom Truscott và Steve Bellovin thiết lập mạng USENET dành cho những người sử dụng UNIX. Mạng USENET là một trong những mạng phát triển sớm nhất và thu hút nhiều người nhất.
Năm 1979 ARPA thành lập Ban Kiểm soát cấu hình Internet.
Năm 1981 ra đời mạng CSNET (Computer Science NETwork) cung cấp các dịch vụ mạng cho các nhà khoa học ở trường đại học mà không cần truy cập vào mạng ARPANET.
Năm 1982 các giao thức TCP và IP được DAC và ARPA dùng đối với mạng ARPANET. Sau đó TCP/IP được chọn là giao thức chuẩn.
Năm 1983 ARPANET được tách ra thành ARPANET và MILNET. MILNET tích hợp với Mạng dữ liệu quốc phòng, ARPANET trở thành một mạng dân sự. Hội đồng các hoạt động Internet (Internet Activities Board) ra đời, sau này được đổi tên thành Hội đồng kiến trúc Internet (Internet Architecture Board).
Thời kì bùng nổ lần thứ nhất của Internet
Năm 1986 mạng NSFnet chính thức được thiết lập, kết nối năm trung tâm máy tính. Đây cũng là năm có sự bùng nổ kết nối, đặc biệt là ở các trường đại học. Như vậy là NSF và ARPANET song song tồn tại theo cùng một giao thức, có kết nối với nhau.
Năm 1990, với tư cách là một dự án ARPANET ngừng hoạt động nhưng mạng do NSF và ARPANET tạo ra đã được sử dụng vào mục đích dân dụng, đó chính là tiền thân của mạng Internet ngày nay. Một số hãng lớn bắt đầu tổ chức kinh doanh trên mạng.
Đến lúc này đối tượng sử dụng Internet chủ yếu là những nhà nghiên cứu và dịch vụ phổ biến nhất là E-mail và FTP. Internet chưa phải là một phương tiện đại chúng.
Bùng nổ lần thứ hai với sự xuất hiện của WWW
Năm 1991 Tim Berners Lee ở Trung tâm nghiên cứu nguyên tử châu Âu (CERN) phát minh ra World Wide Web (WWW) dựa theo một ý tưởng về siêu văn bản được Ted Nelson đưa ra từ năm 1985. Có thể nói đây là một cuộc cách mạng trên Internet vì người ta có thể truy cập, trao đổi thông tin một cách dễ dàng, nhanh chóng.
Cũng vào thời gian này NSFnet backbone được nâng cấp đạt tốc độ 44736 Mbps. NSFnet truyền một tỉ tỉ byte/tháng và 10 tỉ gói tin/tháng.
Năm 1994 là năm kỉ niệm lần thứ 25 ra đời ARPANET, NIST đề nghị thống nhất dùng giao thức TCP/IP. \NW\N đã trỏ thành dịch vụ phổ biến thứ hai sau dịch vụ FTP. Những hình ảnh video đầu tiên được truyền đi trên mạng Internet.
WWW vượt trội hơn FTP và trở thành một dịch vụ có sự lưu thông lớn nhất căn cứ trên số lượng gói tin truyền và số byte truyền. Các hệ thống quay số trực tuyến truyền thống như CompuServe, AmericanOnline, Prodigy bắt đầu cung cấp khả năng kết nối Internet.
Tháng 10 năm 1994 Tập đoàn truyền thông Netscape cho ra đời phiên bản beta của trình duyệt Navigator 1.0 và sau đó có nhiều cải tiến đáng kể trình duyệt của mình, phát triển phần mềm Web Server, Mail Server, Mail Reader,...
Microsoft khỏi đầu chậm hơn, tháng 8 năm 1995 đưa ra trình duyệt đầu tiên của mình là Internet Explorer 1.0 nhưng còn cồng kềnh và chạy rất chậm.
Hai công ti trở thành đối thủ của nhau, cạnh tranh thị trường trình duyệt. Ngày 11 tháng 6 năm 1997, Netscape công bô' phiên bản trình duyệt 4.0. Ngày 30 tháng 10 cũng năm đó Microsoft cũng cho ra đời trình duyệt của mình phiên bản 4.0.
Tháng 7 năm 1996, Công ti Hotmail bắt đầu cung cấp dịch vụ Web Mail. Sau 18 tháng đã có 12 triệu người sử dụng và vì thế đã được Microsoft mua lại với giá 400 triệu đô la.
Triển lãm Internet 1996 World Exposition là triển lãm thế giới đầu tiên trên mạng Internet.
Mạng không dây ngày càng phổ biến
Năm 1985, Cơ quan quản lí viễn thông của Mĩ (FCC) quyết định "mở cửa" một số băng tần của giải sóng không dây, cho phép sử dụng chúng mà không cần giấy phép của chính phủ. Đây là bước mở đẩu cho các mạng không dây ra đời và phát triển rất nhanh. Ban đầu các nhà cung cấp các thiết bị không dây dùng cho mạng LAN như Proxim và Symbol ở Mĩ đều phát triển các sản phẩm độc quyền, không tương thích với các sản phẩm của các công ti khác. Điều này dẫn đến sự cần thiết phải xác lập một chuẩn không dây chung.
Năm 1997, một tiểu ban đã tiến hành thương lượng hợp nhất các chuẩn và đã ban hành chuẩn chính thức IEE 802.11. Sau đó là chuẩn 802.11b (hoạt động trên băng tần 2,1 GHz) và chuẩn 802.11a (hoạt động trên băng tần 5,8 GHz) lần lượt được phê duyệt vào các năm 1999 và năm 2000.
Tháng 8 năm 1999 sáu công ti gồm Intersil, 3Com, Nokia, Aironet, Symbol và Lucent liên kết với nhau tạo ra liên minh tương thích Ethernet không dây VECA. Thuật ngữ Wi-Fi ra đời, là tên gọi thống nhất để chỉ công nghệ kết nối cục bộ không dây đã được chuẩn hoá (theo chuẩn IEEE802.11b).
Năm 1999 nhà sản xuất máy tính nổi tiếng Apple công bố sự xuất hiện của Wi-Fi như một sự lựa chọn trên dòng máy iBook mới của họ. Đó là sự mở đầu đã làm thay đổi hoàn toàn thị trường mạng không dây.
Wi-Fi được phát triển rất nhanh nhờ sự phổ biến mạnh mẽ của kết nối Internet băng rộng tốc độ cao trong gia đình và trỏ thành phương thức dễ nhất cho phép nhiều máy tính cùng chia sẻ một đường truy cập băng rộng. Tiếp theo là sự ra đời phiên bản mới của Wi-Fi có tên gọi là 802.11g sử dụng kĩ thuật dải phổ rộng có thể đạt tốc độ 54 Mb/gíây ở băng tần 2,4 GHz. Dẩu vậy, Wi-Fi là một công nghệ sóng ngắn khó cạnh tranh với các mạng điện thoại di động 3G vốn có khả năng truyền phát dữ liệu tốc độ cao. Công nghệ 3G hiện đang được tích hợp vào các máy tính xách tay, điện thoại di động,... được sản xuất hàng loạt.
Tuy nhiên, dự báo thời gian tới, thế hệ mạng dựa trên công nghệ mới WiMax (tên kĩ thuật là 802.16) sẽ trở nên phổ dụng. WiMax là phiên bản phủ sóng diện rộng của Wi-Fi với thông lượng tối đa đạt tới 70 Mb/giây với tầm xa khoảng 50 Km (Wi-Fi hiện nay có tầm xa khoảng 50 m).
Internet ở Việt Nam
Việt Nam bắt đầu thử nghiệm kết nối với Internet từ năm 1992. Đến năm 1997 Việt Nam chính thức tham gia Internet. Ngày 5/3/1997, Chính phủ đã ra nghị định 21/CP về quy chế sử dụng Internet, theo đó có năm chủ thể tham gia Internet:
IAP (Internet Access Provider) - nhà cung cấp dịch vụ đường truyền để kết nối với Internet, quản lí cổng nối với quốc tế.
Hiện nay, một số đơn vị được cấp phép trở thành IAP như Công ti Điện toán và truyền số liệu VDC thuộc Tổng Công ti Bưu chính Viễn thông, Công ti cổ phần Đầu tư phát triển công nghệ FPT, Công ti Viễn thông Quân đội Viettel,...
Các ISP (Internet Service Provider) - nhà cung cấp các dịch vụ Internet. Các ISP phải thuê đường và cổng của một IAP. Các ISP có quyền kinh doanh thông qua các hợp đồng cung cấp dịch vụ Internet cho các tổ chức và các cá nhân.
Hiện nay ở Việt Nam có nhiều ISP, ví dụ:
Công ti Điện toán và truyền số liệu VDC của Tổng Công ti Bưu chính Viễn thông (ISP lớn nhất);
Công ti FPT thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ;
NETNAM thuộc Viện Công nghệ Thông tin - Viện Khoa hoc và Công nghệ Việt Nam. NETNAM là nơi đầu tiên thực hiện kết nối Internet:
Saigon Postel là công ti cổ phần bưu điện của TP Hồ Chí Minh
Viễn thông quân đội Viettel;
Viễn thông điện lực;
. . .
Các ISP dùng riêng
Các ISP dùng riêng được quyền cung cấp đầy đủ các dịch vụ Internet. Điều khác nhau duy nhất giữa ISP và ISP dùng riêng là ISP dùng riêng không cung cấp dịch vụ Internet với mục đích kinh doanh. Đây là loại hình dịch vụ Internet của các cơ quan hành chính, các trường đại học hay viện nghiên cứu. •
*
Các ICP (Internet Content Provider)
Đây là các nhà cung câ'p thông tin lên mạng Internet. Các ISP có thể đồng thời là ICP. Một số ICP không có thiết bị, họ có thể đặt máy chủ cung cấp thông tin trong mạng của một ISP.
Thuê bao Internet
Người dùng chỉ cần thoả thuận với một ISP hay một ISP dùng riêng nào đó về các dịch vụ được sử dụng và thủ tục thanh toán.