SGK Ngữ Văn 7 - Tìm hiểu chung về phép lập luận giải thích

  • Tìm hiểu chung về phép lập luận giải thích trang 1
  • Tìm hiểu chung về phép lập luận giải thích trang 2
  • Tìm hiểu chung về phép lập luận giải thích trang 3
  • Tìm hiểu chung về phép lập luận giải thích trang 4
  • Tìm hiểu chung về phép lập luận giải thích trang 5
  • Tìm hiểu chung về phép lập luận giải thích trang 6
TÌM HlỂu CHUNG VÊ PHÉP LẬP LUẬN GlẢl THÍCH
I - MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP GlẢl THÍCH
1. Trong đời sống, những khi nào người ta cần được giải thích ? Hãy nêu một sô' câu hỏi về nhu cầu giải thích hằng ngày (Ví dụ : Vì sao lại có nguyệt thực ?
Vì sao nước biên mặn ?...). Muốn trả lời những câu hỏi ấy phải có các tri thức khoa học chuẩn xác.
Trong văn nghị luận, người ta thường yêu cầu giải thích các vấn đề tư tưởng, đạo lí lớn nhỏ, các chuẩn mực hành vi của con người (Ví dụ : Thế nào là hạnh phúc ? Trung thực là gì ? Thế nào là Có chí thì nên ?...).
Đọc bài văn sau và trả lời câu hỏi.
LÒNG KHIÊM TỐN
Lòng khiêm tôn có thể được coi là một bản tính căn bản cho con người trong nghệ thuật xử thế và đôi đãi với sự vật.
Điều quan họng của khiêm tốn là chính nó đã tự nâng cao giá trị cá nhân của con người trong xã hội. Khiêm tôn là biểu hiện của con người đứng đắn, biết sổng theo thời và biết nhìn xa. Con người khiêm tốn bao giờ cũng là người thường thành công trong lĩnh vực giao tiếp với mọi người.
Vậy khiêm tôn là gì ? Khiêm tôn là tính nhã nhặn, biết sống một cách nhún nhường, luôn luôn hướng về phía tiến bộ, tự khép mình vào những khuôn thước của cuộc đời, bao giờ cũng không ngừng học hỏi. Hoài bão lớn nhát của con người là tiến mãi không ngừng, nhưng không nhằm mục đích tự khoe khoang, tự đề cao cá nhân mình trước người khác.
Người có tính khiêm tốn thường hay tự cho mình là kém, còn phải phấn đấu thêm, trau dồi thêm, cần được trao đổi, học hổi nhiều thêm nữa. Người có tính khiêm tốn không bao giờ chịu chấp nhận sự thành công của cá nhân mình trong hoàn cảnh hiện tại, lúc nào cũng cho sự thành công của mình là tầm thường, không đáng kể, luôn luôn tìm cách để học hỏi thêm nữa.
Tại sao con người lại phải khiêm tổn như thế ? Đó là vì cuộc đời là một cuộc đấu tranh bất tận, mà tài nghệ của mỗi .cá nhân tuy là quan trọng, nhưng thật ra chỉ là những giọt nước bé nhỏ giữa đại dương bao la. Sự hiểu biết của mỗi cá nhân không thể đem so sánh với mọi người cùng chung sông với mình. Vì thế, dù tài năng đến đâu cũng luôn luôn phải học thêm, học mãi mãi.
Tóm lại, con người khiêm tôn là con người hoàn toàn biết mình, hiểu người, không tự mình đề cao vai trò, ca tụng chiến công của cá nhân mình cũng như không bao giờ chấp nhận một ý thức chịu thua mang nhiều mặc cảm tự ti đôi với mọi người.
Khiêm tốn là một điều không thể thiếu cho những ai muốn thành công trên con đường đời.
(Theo Lâm Ngữ Đường, Tinh hoa xử thế)
Câu hỏi :
Bài văn giải thích vâh đề gì và giải thích như thế nào ?
Đê’ tìm hiểu phương pháp giải thích, em hãy chọn và ghi ra vớ những câu định nghĩa như : Lòng khiêm tốh có thể coi là một bản tính,... Đó có phải là cách giải thích không ?
Theo em, cách liệt kê các biểu hiện của khiêm tôn, cách đốỉ lập người khiêm tốn và kẻ không khiêm tốn có phải là cách giải thích không ?
Việc chỉ ra cái lợi của khiêm tốn, cái hại của không khiêm tốn và nguyên nhân của thói không khiêm tôn có phải là nội dung của giải thích không ?
Qua những điểm trên, em hiểu thế nào là lập luận giải thích ?
Ghi nhớ
Trong đời sống, giải thích là lầm cho hiểu rõ những điều chưa biết trong mọi lmh vực.
Giải thích trong văn nghị luận là làm cho người đọc hiểu rõ các tư tưởng, dạo lí, phẩm chát, quan hệ,... cần được giải thích nhằm nâng cao nhận thức, trí tuệ, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cho con người.
Người ta thường giải thích bằng các cách : nêu định nghĩa, kể ra các biểu hiện, so sánh, đối chiếu với cấc hiện tượng khác, chỉ ra các mặt lợi, hại, nguyên nhân, hậu quả, cách đề phòng hoặc noi theo,... của hiện tượng hoặc vâh đề được giải thích.
Bài văn giải thích phải có mạch lạc, lớp lang, ngôn từ trong sáng, dễ hiểu. Không nên dùng những diều không ai hiểu dể giải thích những điều người ta chưa hiểu.
Muôn làm dược bài giải thích tốt, phải học nhiều, đọc nhiều, vận dụng tổng hợp các thao tác giải thích phù hợp.
II - LUYỆN TẬP
Đọc bài văn sau và cho biết vân đề được giải thích và phương pháp giải thích trong bài.
LÒNG NHÂN ĐẠO
Lòng nhân đạo tức là lòng biết thương người. Thế nào là biết thương người và thế nào là lòng nhân đạo ?
Hằng ngày chúng ta thường có dịp tiếp xúc với đời sống bên ngoài, trước mắt chúng ta, loài người còn đầy rẫy những cảnh khổ. Từ một ông lão già nua răng long tóc bạc, lẽ ra phải được sống trong sự chăm sóc đùm bọc của con cháu, thế mà ông lão ấy phải sống kiếp đời hành khất(a) sống bằng của bố thí(b) của kẻ qua đường, đến một đứa trẻ thơ, quá bé bỏng mà lại sống bằng cách đi nhặt từng mẩu bánh của người khác ăn dở, thay vì được cha mẹ nuôi nấng, dạy dỗ...
Những hình ảnh ây và thảm trạng ấy khiến cho mọi người xót thương, và tìm cách giúp đỡ. Đó chính là lòng nhân đạo.
Con người cần phải phát huy lòng nhân đạo của mình đối với mọi người xung quanh. Thánh Găng-đi(c) có một phương châm : "Chinh phục được mọi người ai cũng cho là khó, nhưng tạo được tình thương, lòng nhân đạo, sự thông cảm giữa con người với con người lại càng khó hơn. Điều kiện duy nhâì để tạo sự kính yêu và mến phục đối với quần chúng, tốt nhất là phải làm sao phát huy lòng nhân đạo đến cùng và tột độ vậy".
(Theo Lâm Ngữ Đường, Tinh hoa xử thế)
ĐỌC THÊM
ÓC PHÁN ĐOÁN VÀ ÓC THẨM mĩ
Chính Xanh-tơ Bơ-vơcũng đã nói : "Tôi biết nhiều người có óc phán đoán rất đúng mà đồng thời lại thiều óc thẩm mĩ, vì óc thẩm mĩ biểu hiện một cái gì
Hành khất: đi ăn xin.
Bố thí: cho với thái độ làm phúc, làm ơn.
Găng-đi (1869 - 1948) : lãnh tụ phong trào độc lập dân tộc Ấn Độ.
Xanh-tơ Bơ-vơ (1804 - 1861) : nhà phê bình văn học Pháp.
tinh vi nhất, thuộc về bản năng nhất trong cái chỗ tê'nhị mơ hồ nhất của các giác quan của ta
Muôn thưởng thức một bài văn, ta đọc nó chầm chậm một hai lần, xem có cảm thấy cái hay của nó không đã ; khi cảm được rồi, ta mới tìm hiểu nó hay ở chỗ nào. Ta dùng trái tim của ta trước rồi sau mới dùng lí trí. Nếu lòng ta không cảm thì càng phân tích lại càng không hiểu được gì cả. Văn học khác khoa học ở chỗ đó; và óc thẩm mĩ khác óc phán đoán cũng ở chỗ đó : một đằng là sự ưa thích của lòng, một đằng là sự sáng suốt của óc, một đằng cần nhiều cảm thụ tính, một đằng cần nhiều luận lí tính.
Nói vậy không phải là óc thẩm mĩ và óc phán đoán tương phản nhau mà ta không bao giờ dùng lí trí để hiểu được cái đẹp đâu. vẫn có nẸiiều cái đẹp có thể giảng được và ai cũng thấy nó hợp lí : chỉ một số tế nhị quá mới có những lí lẽ riêng của nó mà lí trí không sao phân tích nổi, và muốn nhận thức được, ta phải luyện mĩ cảm bằng cách sống thật nhiều, đọc nhiều tác phẩm bất hủ của mọi xứ và mọi thời.
(Theo Nguyễn Hiến Lê, Hương sắc trong vườn văn)
Tự DO VÀ NÔ LỆ
Loài người hơn loài vật là có quyền tự do. Một con hổ đói nhảy xả vào bất cứ cái gì có thê’ ăn được bày ra trước mắt nó ; một người đói trông thấy vật gì có thể ăn được còn biết suy xét có nên ăn hay không. Con hổ bị cái đói sai khiến không tự kiềm chế được mình ; trái lại người ta không để cho cái đói có thể sai khiến được mình, như vậy là người ta được tự do theo ý muốn riêng.
Quyền tự do là của quý báu nhất của loài người. Không có tự do người ta cũng chỉ như súc vật.
Tự do đây không phải nghĩa là hoàn toàn muốn làm gì thì làm : một thứ tự do vô tổ chức và vô ý thức. Vì loài người sống thành đoàn thể, sống thành xã hội cho nên phải hiểu tự do có nghĩa là muôn làm gì thì làm, nhưng làm theo lẽ phải, theo lí trí, để không phạm tới sự tự do của người khác và không phạm đến quyền lợi chung của đoàn thể.
Trái với tự do là nô lệ. Người nô lệ là người phải chịu phục tòng sự đè nén, sự sai khiến bất cồng của một người hay một thế lực nào khác mạnh hơn mình.
Người nô lệ không còn có thể làm việc gì theo ý muốn của mình, theo tài năng của mình đê’ mưu hạnh phúc cho mình nữa.
Không tự do tức là chết.
(Nghiêm Toản, Việt luận)