SGK Ngữ Văn 6 - Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng

  • Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng trang 1
  • Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng trang 2
  • Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng trang 3
  • Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng trang 4
  • Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng trang 5
  • Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng trang 6
BÀI 16
Kết qua cần đạt
Nắm được nội dung và ý nghĩa của truyện Thầy thuôc giỏi cốt nhất ở tấm lòng ; thấy được tính, hấp dẫn của truyện là ở chỗ đã đặt nhân vật vào tình huống gay cấn để lầm rõ bản chất, tính cách nhân vật.
Biết sủa một sô lỗi chính tẩ do đặc điểm phát âm của địạ phương.
Biết kể miệng (tập nói) một cách rõ ràng, tự nhiên, diễn cảm, phù hợp với nội dung câu chuyện và đủ to để cả lớp nghe.
VĂN BẢN
THẦY THUỐC GIỎI CỐT NHẤT ở TẤM LÒNG
Cụ tô’ bên ngoại của Trừng(l), người họ Phạm, huý(2) là Bân, có nghề y gia trụyền^), giữ chức Thái y lệnh(4) để phụng sự(5) Trần Anh Vương(6).
Ngài thường đem hết của cải trong nhà ra mua các loại thuốc tốt và tích trữ thóc gạo. Gặp kẻ tật bệnh cơ khô’(7), ngài cho ở nhà mình, cấp cơm cháo, chữa trị. Dâu bệnh có dầm dề máu mủ, ngài cũng không hề né tránh. Bệnh nhân đến chữa tới khi khoẻ mạnh rồi đi. Cứ như vậy, trên giường không lúc nào vắng người.
Bỗng liền năm đói kém, dịch bệnh nôi lên, ngài lại dựng thêm nhà cho những kẻ khốn cùng đói khát và bệnh tật đến ở, cứu sổhg hơn ngàn người. Ngài được người đương thời trọng vọng(8).
Một lần, có người đến gõ cửa, mời gấp :
Nhà có người đàn bà, bỗng nhiên nguy kịch, máu chảy như xối, mặt mày xanh lét.
Nghe vậy, ngài theo người đó đi ngay. Nhung ra tới cửà thì gặp sứ giả do vương sai tới, bảo rằng :
Trong cung có bậc quý nhân(9) bị sốt, vương triệu đến khám.
Ngài nói :
Bệnh đó không gấp. Nay mệnh sông của người nhà người này ’chỉ ở trong khoảnh khắc. Tôi hãy cứu họ trước, lát nữa sẽ đến vương phủ(10\
Quan Trung sứ*-11) tức giận nói:
Phận làm tôi, sao được như vậy ? Ông định cứu tính mạng người ta mà không cứu tính mạng mình chăng ?
Ngài đáp :
Tôi có mắc tội, cũng không biết làm thê’ nào. Nếu người kia không được cứu, sẽ chết trong khoảnh khắc, chẳng biết trông vào đâu. Tính mệnh của tiểu thần (12) còn trông cậy vào chúa thượng(13)z may ra thoát. Tội tôi xin chịu.
Nói rồi, đi cứu người kia. Họ quả được cứu sông. Lát sau, ngài đến yết kiêr/14\ vương quở trách. Ngài bổ mu ra, tạ tội, bày ro lòng thành của mình. Vương mừng nói:
- Ngươi thật là bậc lương y(15) chân chính, đa giỏi về nghề nghiệp lại có lòng nhân đức, thương xót đám con đỏ(16) của ta, thật xứng với lòng ta mong mỏi.
Về sau, con cháu của ngài làm quan lương y đến hàm ngu phẩm, tứ phẩm*-17) có tới hai ba vị. Người đời đều khen ngợi họ không để sa sút nghiệp nhà.
(Hồ Nguyên Trừng(*\ Nam Ông mộng lục,
Uu Đàm - La Sơn soạn dịch, chú giải,
Nguyễn Đăng Na giới thiệu, NXB Văn học, Hà Nội, 1999)
Chú thích
(★) Hồ Nguyên Trừng (1374 - 1446), con trưởng của Hồ Quý Ly, làm quan dưới triều vuạ cha, từng hăng hái chống giặc Minh xâm lược, bị giặc Minh bắt đem về Trung Quốc. Nhờ có tài chế tạo vũ khí, ông được làm quan trong triều nhà Minh tới chức Thượng thư (tương đương với chức Bộ trưởng ngày nay). Ông qua đời trên đất Trung Quốc. Nam Ông mộng lục là tác phẩm Hồ Nguyên Trừng viết trong thời gian ở đây.
Trừng: tức Hồ Nguyên Trừng.
Huý: ở đây là tên của người đã chết, thường kiêng không nói đến.
Gia truyền : truyền từ đời này sang đời khác trong phạm vi gia đình.
Thái y lệnh : chức quan trông coi việc chữa bệnh trong cung vua.
Phụng sự: phục vụ hết lòng.
Trần Anh Vương : tức Trần Anh Tông, làm vua từ năm 1293 đến năm 1314 {vương: vua ; tước cao nhất trong triều đình ngày xưa).
Cơ khổ: đói khổ {cơ: đói).
Trọng vọng: hết sức coi trọng và ngưỡng mộ.
Quý nhân : ồ đây có nghĩa là người ở bậc cao sang và được tôn kính.
Vương phủ: nơi ở và làm việc của các bậc vua chúa, quý tộc phong kiến xưa.
Trung sứ: một chức quan phục vụ công việc của triều đình.
Tiểu thần : người bề tôi ỏ’ bậc nhỏ, thấp, theo cách nói nhún nhường.
Chúa thượng: từ dùng đê’ gọi vua chúa một cách tôn kính (thời phong kiến).
Yết kiến : ra mắt người bề trên.
Lươngy: thầy thuốc giỏi.
Con đỏ : dịch nghĩa hai từ xích tử mà ngày xưa vua chúa dùng để chỉ những người dân thường.
Ngũ phẩm : phẩm hàm bậc năm. Tứ phẩm : phẩm hàm bậc bốn {phẩm : một hình thức chỉ câp bậc của quan lại ở thời phong kiến. Có chín bậc phẩm hàm. Cao nhất là nhẩt phẩm - phẩm hàm bậc nhất. Thâ'p nhát là cửu phẩm - phẩm hàm bậc chín. Trong mỗi phẩm hàm lại có hai loại: chính, tòng).
ĐỌC - Hiểu VĂN BẢN
Hãy kê’ ra những chi tiết nói về nhân vật Thái y lệnh họ Phạm. Từ đó :
Trả lời các câu hỏi sau :
Vị Thái y lệnh là người thế nào ?'
Trong những hành động của ông, điều gì làm em cảm phục nhất và suy nghĩ nhiều nhát ?
Phân tích, bình luận lời đối thoại của vị Thái y với quạn Trung sứ : "Ngài đáp : Tôi có mắc tội... tôi xin chịu tội".
Trước cách xử sự của vị Thái y lệnh, thái độ của Trần Anh Vương diễn biến như thế nào ? Qua đó, nhân cách của Trần Anh Vương được thê hiện ra sao ?
Qua câu chuyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng có thể rút ra cho những người làm nghề y hôm nay và mai sau bài học gì ?
4*. Hãy so sánh nội dung y đức(a) được thể hiện ở văn bản Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng với văn bản kê’ về Tuệ Tĩnh (tr. 44).
Ghi nhớ
Với hình thức ghi chép chuyện thật, trong dó biết xoáy vào một tình huống gay câ'n để tính cách nhân vật dược bộc lộ rõ nét, truyện Thầy thuốc giỏi cô't nhất ở tấm lòng ca ngợi phẩm chất cao quý của vị Thái y lệnh họ Phạm : không chỉ có tài chửa bệnh mà quan trọng hơn lằ có lòng thương yêu và quyết tâm cứu sống người bệnh tới mức không sợ quyền uy, không sợ mang vạ vào thân.
LUYỆN TẬP
Một bậc lương y chân chính theo mong mỏi của Trần Anh Vương phải như thế nào ? Hãy so sánh nội dung đó với nội dung trong lời thề của Hi-pô-cờ-rát được trích ở phần Đọc thêm.
Nhan đề văn bản này nguyên văn chữ Hán là Y thiện dụng tâm (y : chữa bệnh, thầy thuốc ; thiện : giỏi, tốt, lành ; dụng: dùng, đem dùng; tâm : lòng, tấm lòng). Có sách dịch nhan đề trên là Thầy thuốc giỏi ở tấm lòng, ở đây dịch : Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tâm lòng. Vậy có gì khác nhau ? Em tán thành cách nào ? Lí do?
ĐỌC THÊM
Thấy người đau giông mình đau,
Phương nào cứu đặng^ ' mau mau trị lành.
Đứa ăn mày cũng trời sinh,
Bệnh còn cứu đặng, thuốc dành cho không.
[...] Hỡi ai có bụng như vầy,
Đạo y ngày sáng, tiếng thầy nào hư.
(Nguyễn Đình Chiểu, Ngư Tiều ỵ thuật vâh đáp)
Y đức : đạo đức của người thầy thuốc.
Đặng: được.
"[...] Cán bộ cần phải thương yêu, săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn."
(Hồ Chí Minh, Thưgựỉ Hội nghị cán bộ ỵ tế, tháng 2 - 1955)
"[...] Tôi không lấy tiền thù lao quá đáng và sẽ săn sóc miễn phí cho người nghèo. [...]"
(Lời thề Hỉ-pô-cờ-rát)(à)