SGK Lịch Sử 6 - Bài 19 - Từ sau Trưng Vương đến trước Lý Nam Đế (Giữa thế kỉ I - Giữa thế kỉ VI) (1 tiết)

  • Bài 19 - Từ sau Trưng Vương đến trước Lý Nam Đế (Giữa thế kỉ I - Giữa thế kỉ VI) (1 tiết) trang 1
  • Bài 19 - Từ sau Trưng Vương đến trước Lý Nam Đế (Giữa thế kỉ I - Giữa thế kỉ VI) (1 tiết) trang 2
  • Bài 19 - Từ sau Trưng Vương đến trước Lý Nam Đế (Giữa thế kỉ I - Giữa thế kỉ VI) (1 tiết) trang 3
Bài 19
Từ SAU TRƯNG VƯƠNG ĐẾN TRƯỚC LÝ NAM ĐẾ
(Giữa thế kỉ I - Giữa thế kỉ VI)
Chế độ cai tộ của các triều đại phong kiến phương Bắc
đối với nước ta từ thế kỉ I đến thế kí VI
Sau khi đàn áp được cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nhà Hán vẫn giữ nguyên châu Giao.
Đầu thê kỉ III, nhà Đông Hán suy yếu. Trung Quốc bị chia thành ba nước Ngụy - Thục - Ngô (Tam quốc). Nhà Ngô tách châu Giao thành Quảng Châu (thuộc Trung Quốc) và Giao Châu (Âu Lạc cũ).
52
')
Em hãy cho biết miên đất Âu Lạc trước đây bao gôm những quận nào của châu Giao ?
Từ sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nhà Hán đưa người Hán sang thay người Việt làm Huyện lệnhỊV, trực tiếp cai quản các huyện.
Em có nhận xét gì về sự thay đổi này ?
Trong thời gian này, nhân dân Giao Châu vẫn phải chịu nhiều thứ thuế (nhất là thuế muối, thuế sắt), lao dịch và nộp cống (các sản vật quý, sản phâm thủ công và cả thợ khéo).
Thứ sử Tôn Tư bắt hàng nghìn thợ thủ công sang xây dựng kinh đô Kiến Nghiệp (Nam Kinh).
Cuối thê'kỉ II, Thứ sử(2>Giao Châu là Giả Tông hỏi tại sao dân hay "phản loạn", dân trả lời: "Phú liễm quá nặng, trăm họ xác xơ'. Giả Tông phải tạm thời "tha miễn các khoản lao dịch" (Hậu Hán thư).
sử nhà Đông Hán cũng phải thừa nhận: "Ở đất Giao Chỉ...thứ sử trước sau phần lớn không thanh liêm, trên thì bợ đỡ kẻ quyền quý, dưới thì thu vét của cải của dân, đêh khỉ đầy túi liền xin đổi về nước."
Em có nhận xét gì vê chính sách bóc lột của bọn đô hộ ?
Thế lực phong kiến phương Bắc tiếp tục tăng cường đưa người Hán sang Giao Châu, buộc dân ta phải học chữ Hán và tiếng Hán, tuân theo luật pháp và phong tục tập quán của người Hán.
Vì sao nhà Hán tiếp tục thỉ hành chủ trương đưa người Hán sang ở nước ta ?
Tình hình kinh tế nưóc ta từ thế kỉ I đến thế kỉ VI có gì thay đổi ?
Chính quyền đô hộ Hán nắm độc quyền về sắt và đặt các chức quan để kiểm soát gắt gao việc khai thác, chế tạo và mua bán đồ sắt'.
Vì sao nhà Hán giữ độc quyền về sắt ?
Mặc dù bị hạn chế, nhưng nghề rèn sắt ở Giao Châu vẫn phát triện.
Huyện lệnh : chức quan cai quản một huyện thời Hán đô hộ.
Thứ sử: chức quan cai quản một châu thời Bắc thuộc.
Phú liễm : chỉ thuế má và các thứ phải cống nạp cho bọn đô hộ.
Trong các di chỉ, mộ cổ thuộc thế kỉ I - VI, chúng ta đã tìm được nhiều đồ sắt. Về công cụ, có rìu, mai, cuốc, dao... ; về vũ khí, có kiếm, giáo, kích, lao...; về dụng cụ, có nồi gang, chân đèn và rất nhiều đinh sắt... Đến thế kỉ III, nhân dân ven biển đã dùng lưới sắt để khai thác san hô. Ớ miền Nam, người dân còn biết bịt cựa gà chọi bằng sắt.
Từ thế kỉ I, ở Giao Châu, việc cày, bừa do trâu, bò kéo đã phổ biến.
Theo Giao Châu kí, ở huyện Phong Khê (miền Vĩnh Phúc, Phú Thọ và Đông Anh - Hà Nội) có đê phòng lụt. sử cũ cũng nói Giao Châu có nhiều kênh, ngòi. Người ta đã biết trồng hai vụ lúa trong một năm : vụ chiêm và vụ mùa, lúa rất tốt.
Nông thôn Giao Châu có đủ loại cây trồng và chăn nuôi rất phong phú. Sách Nam phương thảo mộc trạng nói đến một kĩ thuật trồng cam rất đặc biệt của người châu Giao : để chống sâu bọ châm đục thân cây cam, người ta nuôi loại kiến vàng, cho làm tổ ngay trên cành cam... ; đó là kĩ thuật “dùng côn trùng diệt côn trùng”.
Em hãy cho biết những chi tiết nào chứng tỏ nên nông nghiệp Giao Châu vẩn phát triển ?
Bên cạnh nghề rèn sắt, nghề gô'm cổ truyền cũng rất phát triển. Người ta đã biết tráng men và vẽ trang trí trên đồ gốm rồi mới đem nung, sản phẩm đồ gốm ngày càng phong phú về chủng loại, như nồi, vò, bình, bát, đĩa, âm chén, gạch, ngói..., đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và xây dựng nhà cửa.
Cùng với các loại vải bông, vải gai, vải tơ..., người ta còn dùng tơ tre, tơ chuôi đê dệt thành vải. vải tơ chuôi là đặc sản của miền đất Âu Lạc cũ, các nhà sử học gọi là “vải Giao Chỉ”.
Các sản phẩm nông nghiệp và hàng thủ công không bị sung làm đồ cống nạp mà được đem trao đổi ở các chợ làng. Ớ những nơi tập trung đông dân cư như Luy Lâu, Long Biên..., có cả người Trung Quốc, Gia-va, Ấn Độ... đến trao đổi buôn bán. Chính quyền đô hộ giữ độc quyền ngoại thương.
CÂU HỎI
Trong các thế kỉ I - VI, chế độ cai trị của các triều đại phương Bắc đối với nước ta có gì thay đổi ?
Những biểu hiện mới trong nông nghiệp thời kì này là gì ?
Hãy trình bày những biểu hiện về sự phát triển của thủ công nghiệp và thương nghiệp nước ta trong thời kì này.