SGK Ngữ Văn 11 - Hầu trời

  • Hầu trời trang 1
  • Hầu trời trang 2
  • Hầu trời trang 3
  • Hầu trời trang 4
  • Hầu trời trang 5
  • Hầu trời trang 6
TẢN ĐÀ
HẤU TRỜI
KẾT QUÁ CẦN ĐẠT—
Cảm nhận được tâm hồn lãng mạn độc đáo của thi sĩ Tản Đà và những dấu hiệu đổi mới cả về nội dung và nghệ thuật theo hướng hiện đại của thơ ca Việt Nam vào đầu những năm 20 của thế kỉ XX.
X	4
TIỂU DẪN
Tản Đà (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Son Tây (nay thuộc huyện Ba Vi, Hà Nội). Quê hưong ông nằm bên bờ sông Đà, gần chân núi Tản Viên. Ông sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời, Hán học đã tàn mà Tây học cũng mới bất đầu, nên con người ông, kể cả học vấn, lối sống và sự nghiệp văn chưong đều mang dấu ấn “người của hai thế kỉ” (Hoài Thanh). Tản Đà theo học chữ Hán từ nhỏ, nhưng sau hai khoá thi Hương hỏng, ông bỏ thi, chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ.
Vào những năm 20 của thế kỉ XX, tên tuổi Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng trên thi đàn. Các tác phẩm chính của Tản Đà: Khối tình con I, //{thơ- 1916,1918), Giấc mộng con I,II (truyện phiêu lưu viễn tưởng - 1916, 1932), Khối tình bản
chính, Khối tình bản phụ (luận thuyết - 1918), Còn chơi (thơ và văn xuôi - 1921), Thơ Tản Đà (1925), Giấc mộng lớn (tự truyện - 1928),...
Điệu tâm hồn mới mẻ, “cái tôi” lãng mạn bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương, ưu ái trong thơ văn ông đã chinh phục thế hệ độc giả mới đầu thế kỉ XX. Giữa lúc thơ phú nhà nho tàn cuộc, Tản Đà có lối đi riêng, vừa tìm về với ngọn nguồn thơ ca dân gian và dân tộc, vừa có những sáng tạo độc đáo, tài hoa. Thơ văn ông có thể xem như một gạch nối giữa hai thòi đại văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại.
Bài Hầu Trời in trong tập Còn chới, xuất bản lần đầu năm 1921. Trong tác phẩm này còn có những bài nổi tiếng khác như Còn chơi, Lo văn ế, Tống biệt,...
VÃN BẢN
Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chảng phải hoảng hốt, không mơ mòng.
Thật hồn ! Thật phách ! Thật thân thể !
Thật được lên tiên - sướng lạ lùng.
Nguyên lúc canh ba nằm một mình,
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh.
Nằm buồn, ngồi dậy đun nước uống,
Uống xong ấm nước, nằm ngâm văn.
Choi văn ngâm chán lại choi trăng Ra sân cùng bóng đi tung tăng Trên tròi bỗng thấy hai cô xuống Miệng cười mủm mỉm cùng nói rằng:
- “Trời nghe hạ giới ai ngâm nga,
Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà(1)!
Làm Trời mất ngủ, Trời đưong mắng Có hay lên đọc, Trời nghe qua.”
Ước mãi bây giờ mói gặp tiên!
Người tiên nghe tiếng lại như quen!
Văn chưcmg nào có hay cho lắm Tròi đã sai gọi thòi phải lên.
Theo hai cô tiên lên đường mây Vù vù không cánh mà như bay.
Cửa son đỏ chói, oai rực rỡ Thiên môn đế khuyết	Ngân Hà (ngân : bạc; hà: con sông): tên gọi của dải sao dày đặc vất ngang bầu trời, trông như một dòng sông bạc.
 	Thiên môn đế khuyết (thiên môn : cửa tròi ; đế khuyết: cửa vào thiên đình): chỉ cửa trời.
 	Tĩnh túc (tĩnh hay tịnh: yên lặng; túc: trú lại, ở lại): ngồi yên chỗ, ngồi yên lặng.
 như là đây!
Vào trông thấy Tròi, sụp xuống lạy Trời sai hên nữ dắt lôi dậy.
Ghế bành như tuyết vân như mây Truyền cho văn sĩ ngồi choi đấy.
Chư tiên ngồi quanh đã tĩnh túcí3)
Trời sai pha nước để nhấp giọng.
Truyền cho “văn sĩ đọc văn nghe !”
- “Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc.”
Đọc hết văn vần sang văn xuôi Hết văn thuyết lí lại văn choi Đưong con đắc ý đọc đã thích Chè trời nhấp giọng càng tốt hoi.
Văn dài hơi tốt ran cung mây!
Tròi nghe, Trời cũng lấy làm hay.
Tâm(1) như nở dạ, Cơ	Tâm : tên một ngôi sao, ở đây tác giả còn lấy cả nghĩa chữ tâm là "lòng dạ" để viết nở dạ (một lối choi chữ).
 	Cơ: tên một ngôi sao. Cơ (chữ Hán) còn có nghĩa là "cái thúng", "cái mẹt", từ đó tâc giả lấy nghĩa bóng để viết lè lưỡi (một lối chơi chữ).
 lè lưỡi Hằng Nga	Hằng Nga: tên gọi mặt trăng, cũng chỉ người con gái đẹp.
, Chức Nữ	Chức Nữ: tên một ngôi sao ở phía bấc dải Ngân Hà, cũng là tên người con gái dệt vải ttong truyện cổ Ngưu Lang - Chức Nữ.
 chau đôi mày Song Thành, Tiểu Ngọc	Song Thành, Tiểu Ngọc: tên hai thị nữ của bà Tây Vương Mầu trên trôi.
 lắng tai đứng Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay.
“Bẩm con không dám man	Man: dối trá.
 	Khối tình, Khối tình con, Thần tiền, Giấc mộng, Đài gưong, Lên sáu, Đàn bà Tàu, Lên tám : tên các tác phẩm của Tản Đà.
 cửa Tròi Những áng văn con in cả rồi
Hai quyển Khối tình văn thuyết lí Hai Khối tình con là văn choi Thần tiền, Giấc mộng văn tiểu thuyết Đài gưong, Lên sáu văn vị đời Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch Đến quyển Lên támm nay là mưòi Nhờ Tròi văn con còn bán được Chửa biết con in ra mấy mưoi ?”
Văn đã giàu thay, lại lắm lối Tròi nghe Trời cũng bật buồn cười! Chư tiên ao ước tranh nhau dặn :
“Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”
Trời lại phê cho : “Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít!
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển! Êm như gió thoảng, tinh như sưong! Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết! Chẳng hay văn sĩ tên họ gì ?
Người ở phưong nào, ta chưa biết.”
“Dạ, bẩm lạy Tròi con xin thưa Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn Quê ở Á châu về Địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt.”
Nghe xong Tròi ngợ một lúc lâu Sai bảo thiên tào(1) lấy sổ xét.
Thiên tào tra sổ xét vừa xong Đệ sổ lên trình Thượng đế trông
“Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu Đày xuống hạ giói vì tội ngông.”
Tròi rằng : “Không phải là Trời đày,
Tròi định sai con một việc này Là việc “thiên lưong”	Thiên tào: chỗ ở của Tròi, ttong cãu này tác giả muốn nói một vị quan ưông coi sổ sách ttên ttòi.
 	Thiên lưong : theo Tản Đà, thiên lượng ở mỗi con người tuỳ thuộc vào sự tu dưỡng của bản thân. Ở nhiều tác phẩm khác, Tản Đà vẫn tự nhận mình là ngưòi được Tròi trao cho nhiệm vụ làm sao cho thiên lưong được hưng thịnh ở hạ giới: Hai chữ “thiên lưong" thắng Hiếu nhớ - Dám xin không phụ Trời trông mong (Tiễn ông Công lên chầu Trời).
 của nhân loại, Cho con xuống thuật cùng đời hay.”
“Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó Trần gian thước đất cũng không có Nhờ Tròi năm xưa học ít nhiều
Vốn liếng còn một bụng văn đó.
Giấy người mực người thuê người in Mướn cửa hàng người bán phường phố. Văn chưong hạ giói rẻ như bèo Kiếm được đồng lãi thực rất khó.
Kiếm được thòi ít tiêu thòi nhiều Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.
Lo ăn lo mặc hết ngày tháng Học ngày một kém tuổi ngày cao Sức trong non yếu ngoài chen rấp Một cây che chống bốn năm chiều. Tròi lại sai con việc nặng quá Biết làm có được mà dám theo.”
Rằng: “Con không nói Trời đã biết Trời dẫu ngồi cao, Tròi thấu hết Thôi con cứ về mà làm ăn Lòng thông chớ ngại chi sưong tuyết!”
Vâng nhời Trời dạy, lạy xin ra Trời sai Khiên Ngưu(1) đóng xe tiễn Xe trời đã chực ngoài thiên môn Chư tiên theo ra cùng tiễn biệt.
Hai hàng luỵ biệt giọt sưong rơi Trông xuống trần gian vạn dặm khơi. Thiên tiên	Khiên Ngưu : tên một ngôi sao ở phía nam dải Ngân Hà, cũng là tên chàng chăn trâu trong truyện cổ Ngưu Lang - Chức Nữ, đã được Ngọc Hoàng gả Chức Nữ cho, nhưng vì phạm tội, bị Ngọc Hoàng phạt, mỗi năm chỉ được qua cầu Ô Thước (bác qua dải Ngân Hà) gặp Chức Nữ một lần vào ngày thất tịch (7-7 âm lịch).
 	Thiên tiên: tiên ở trên trời.
 	Trích tiên: tiên bị đày xuống hạ giới. Ở nhiều tác phẩm khác, Tản Đà tự nhận mình là trích tiên.
 ở lại, trích tiêní3) xuống Theo đường không khí về trần ai.
Đêm khuya khí thanh sao thưa vắng Trăng tà đưa lối về non Đoài	Non Đoài: núi phía tây, chỉ quê Hương của Tản Đà (núi Tản Viên ở phía tây của Hà Nội).
.
Non Đoài đã tói quê trần giới,
Trông lên chư tiên không còn ai.
Tiếng gà xao xác, tiếng người dậy Giữa sân còn dửng riêng ngậm ngùi.
Một năm ba trăm sáu mưoi đêm,
Sao được mỗi đêm lên hầu Tròi!
(Theo Tuyển tập Tản Đà, NXB Văn học, Hà Nội, 1986)
HƯỚNG DẪN HỌC BÀI
Anh (chị) hây phân tích khổ thơ đầu. Cách vào đề của bài thơ gọi cho người đọc cảm giác như thế nào về câu chuyện mà tác giả sắp kể ?
Tác giả đã kể lặi chuyện mình đọc thơ cho Tròi và chư tiên nghe như thế nào ? (Thái độ của tác giả, của chư tiên và những lòi khen của Tròi.) Qua đoạn thơ đó, anh (chị) cảm nhận được những điều gì về cá tính nhà thơ và niềm khao khát chân thành của thi sĩ ? Nhận xét về giọng kể của tác giả.
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong bài lại có một đoạn rất hiện thực. Đó là đoạn thơ ríào ? Tìm hiểu ý nghĩa đoạn thơ đó. Theo anh (chị), hai nguồn cảm hứng này ở thi sĩ Tản Đà có mối liên hệ vói nhau như thế nào ?
về mặt nghệ thuật, bài thơ này có gì mới và hay ? (Chú ý các mặt: thể loại, ngôn từ, cách biểu hiện cảm xúc, hư cấu nghệ thuật,...)
	GHI NHỚ	
Qua bài Hầu Trời, Tản Đà đã mạnh dạn tự biểu hiện "cái tôi" cá nhân - một "cái-tôi" ngông, phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khẳng định giữa cuộc đời. Bài thơ có nhiều sáng tạo trong hình thức nghệ thuật : thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do, giọng điệu thoải mái, tự nhiên, ngôn ngữ giản dị, sống động, hóm hỉnh.
S	——:—	 J
LUYỆN TẬP
Bài Hầu Trời có ý tưởng gì hoặc câu thơ nào làm cho anh (chị) thích thú nhất ? Hãy viết một đoạn văn trình bày cảm xúc của mình.
2*. Anh (chị) hiểu thế nào là “ngông” ? Cái “ngông” trong văn chương thường bộc lộ một thái độ sống như thế nào ? (Có thể dẫn chứng qua những tác phẩm đã học.) Cái “ngông” của thi sĩ Tản Đà trong bài thơ này biểu hiện'ở những điểm nào và có thể giải thích ra sao ?