SGK Ngữ Văn 11 - Đọc thêm: Cha con nghĩa nặng (trích)

  • Đọc thêm: Cha con nghĩa nặng (trích) trang 1
  • Đọc thêm: Cha con nghĩa nặng (trích) trang 2
  • Đọc thêm: Cha con nghĩa nặng (trích) trang 3
  • Đọc thêm: Cha con nghĩa nặng (trích) trang 4
đọcthêm cha con nghía nặng	 Hồ BIỂU CHÁNH
lend (Trích)
TIỂU DẪN
Hồ Biểu Chánh (1885 - 1958) tên khai sinh là Hồ Văn Trung, quê ở làng Bình Thành (nay là xã Thành Công, huyện Gò Công Tây, tính Tiền Giang). Thuở nhỏ học chữ Nho, sau học chữ quốc ngữ, làm công chức ở nhiều noi, am hiểu sâu sắc cuộc sống và con người Nam Bộ. Năm 1909, ông viết truyện dài đầu tay u tình lục bằng thể thơ lục bát. ông sáng tác đều đặn, cần mẫn, thử sức ữong nhiều lĩnh vực (khảo cứu, phê bình, làm thơ, viết tuồng hát,...), nhưng nổi tiếng hơn cả trong lĩnh vực tiểu thuyết, được xem là một trong số ít những người tiên phong đặt nền móng cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Ông để lại 64 cuốn tiểu thuyết đậm đặc dấu ấn cuộc sống và tính cách con người Nam Bộ.
Cha con nghĩa nặngỉầ tác phẩm thứ 15 của Hổ Biểu Chánh, xuất bản năm 1929. Trần Vãn Sửu là một nông dân hiền lành, chăm chỉ. Sửu lấy thị Lựu, sinh được ba người con : Tí, Quyên, Sung. Sửu thương vợ, yêu con, nhưng không may gặp phải người vợ tính cách xấu xa. Một hôm, Sửu bắt gặp vợ ngoại tình với hương hào Hội(1). Thị Lựu đã không biết hối lỗi, lại còn ăn nói hỗn hào, rồi níu giữ chồng cho tình nhân chạy thoát. Trong giây phút tức giận, Sửu xô vợ, không may vợ ngã vấp vào phản chết ngay. Sửu bỏ trốn. Mọi người lại tưởng anh đã nhảy xuống sông tự tử. Anh em thằng Tí về ở với ông ngoại là hương thị Tào, (2), (3) Hội, Tào, Tồn là tên người; hưong hào, hưong thị, hưong quản là những chức dịch ở
. Sung ốm chết, Tí và Quyên đi làm thuê cho bà hương quản Tồnlàng quê Nam Bộ thời thực dân phong kiến.
, được bà thương, gây dựng gia đình cho cả hai đứa, và Quyên trở thành con dâu của bà. Sau mười mấy năm trốn tránh, Sửu lẻn về quê thăm con. Được bố vợ cho biết cuộc sống của hai đứa con đều ổn định và hạnh phúc, sự có mặt của anh lúc này là bất lợi, Sửu vội vã ra đi... Sau đó, Trần Văn Sửu được xoá án và cha con đoàn tụ. Đoạn trích dưới đây kể lại sự việc Sửu bỏ đi sau khi lẻn về thăm con, thằng Tí chạy theo cha và hai cha con gặp nhau trên cầu Mê Tức.
VĂN BẢN
Xuống tói cầu Mê Tức, phần thì mệt, phần thì mỏi cảng, nên Trần Vãn Sửu ngồi dựa cầu mà nghỉ. Trên trời trăng thanh vằng vặc ; dưới sông dòng bích	Dòng bích : dòng nước biếc.
 nao nao. Cảnh im lìm, mà lòng lại bồi hồi; con vui sướng, còn cha thì sầu não.
Trần Văn Sửu ngồi khoanh tay ngó dòng nước chảy một hồi rồi nói trong trí rằng : “Bây giờ mình còn sống nữa làm gì! Bấy lâu nay mình lăn lóc chịu cực khổ mà sống, ấy là vì mình thưong con, mình sợ nó không hiểu việc xưa rồi nó trở oán mình, mình sợ nó bơ vơ đói rách, mà tội nghiệp thân nó. Bây giờ mình biết rõ nó thương mình, nó còn kính trọng mình, mà nó lại gần được giàu có sung sướng hết thảy nữa, vậy thì nên chết rồi, chết mới quên hết việc cũ được, chết đặng	Đặng: để.
 hết buồn rầu cực khổ nữa”.
Anh ta nghĩ vậy rồi nhắm mắt lại. Anh ta thấy thị Lựu nằm ngay đơ trên bộ ván, miệng nhểu(1) mấy giọt máu đỏ lòm, mắt hết thần mà còn mở trao tráo	Nhểu: ứa ra.
 	Mở trao tráo: mở thao láo, mở to.
. Anh ta lại thấy buổi chiều anh ta ở ngoài ruộng đi về, con Quyên thằng Tí chạy ra, đứa níu áo, đứa nắm tay mà nói dỏ dẻ	Nói dỏ dé: nói nhỏ nhẹ, thỏ thẻ.
 	Day: quay lại.
 	Chạy riết: chạy thật nhanh, vội vã.
. Anh ta thấy cái cảnh gia đình ngày truớc rõ ràng truớc mắt, thì anh ta đau đớn trong lòng quá, chịu không đuợc, nên vùng đứng dậy và nói lớn lên rằng : “Mấy con ơi! Cha chết nhé. Mấy con ở lại mạnh giỏi, để cha theo mẹ con cho rồi”. Anh ta vừa nói vừa chui qua lan can cầu. Anh ta vừa mới đút đầu, bỗng có nguời chạy lên cầu và hỏi rằng : “Ai đó ? Phải cha đó không cha ?”.
Trần Văn Sửu giật mình, tháo đầu trở vô, rồi dayí4) mà ngó. Thằng Tí chạy riết® lại nắm tay cha nó, dòm sát trong mặt mà nhìn, rồi ôm cứng trong lòng mà nói: “Cha ôi! Cha ! Cha chạy đi đâu dũ vậy”. Lúc ấy Trần Văn Sửu mất trí khôn, hết nghị lực, máu trong tim chảy thình thịch, nuớc trong mắt tuôn ròng ròng, đứng xui xị xui lơ	Xui xị xui lơ: ủ rũ.
, không nói đuợc một tiếng chi hết.
Cha con ôm nhau mà khóc một hồi rồi buông ra. Trần Văn Sửu ngồi trên dọc dựa lan can cầu, rồi nói rằng : “Thôi con về đi”. Thằng Tí lắc đầu nói rằng :
Con về không được. Bấy lâu nay con tưởng cha đã chết rồi, té ra cha còn sống. Vậy thì bây giờ cha đi đâu con theo đó.
Con đừng có cãi cha. Con phải về đặng lo cưới vợ.
Cưới vợ làm gì ? Cưới vợ đặng báo hại như má báo hại cha hồi trước đó sao ?
Con không nên phiền trách	Phiền trách : phàn nàn, chê trách.
 	Quấy: sai trái.
 má con. Má con có quấy là quấy vói cha, chứ không quấy vói con. Mà cha đã quên cái lỗi của má con rồi, sao con còn nhớ làm chi ?
Quên sao cho được !
Phải quên đi, đừng có nhớ nữa. Tại mạng số của cha vậy, chớ không phải tại má con đâu. Mà má con làm quấy, thì sự chết đó đã chuộc cái quấy® hết rồi; bây giờ quấy về phần cha, chớ má con hết quấy nữa.
Cha nói vậy thì con xin nghe lời cha. Thôi, cha trở về nhà vói con.
Huý! về sao được ?
Sao vậy ?
về rồi làng tổng họ đến bắt còn gì ?
Thằng Tí nghe nói như vậy thì nó tỉnh ngộ, nên ngồi lặng thinh mà suy nghĩ. Cách một hồi nó mói nói rằng:
Bây giờ làm sao ?
Để cha đi. Cha đi cho biệt tích, đặng con lấy vợ và con Quyên cưới chồng mói tử tế được.
Cha đi đâu ?
Đi đâu cũng được.
Hễ cha đi thì con đi theo.
Để làm gì ?
Đi theo đặng làm mà nuôi cha; chừng nào cha chết rồi con sẽ về.
Con đừng có tính bậy. Con phải ở nhà làm mà nuôi ông ngoại.
Có trâu, có lúa sẵn đó, ông ngoại làm mà ăn, cần gì con nuôi nữa. Lại có con Quyên ở nhà đó. Cậu Ba Giai cưới nó đấy, nó giàu có, thiếu gì tiền bạc, nó giúp đỡ ông ngoại được rồi. Bây giờ có một mình cha nghèo khổ, vậy con phải làm mà nuôi cha chứ.
Trần Văn Sửu nghe con nói mấy điều hiếu nghĩa ấy thì anh ta cảm xúc quá, nên ngồi khóc nữa. Lúc ấy anh ta lấy làm bối rối, không biết liệu lẽ nào cho xuôi. Thấy con bịn rịn, muốn ở lại đặng cha con sum hiệp(1), thì sợ làng tổng bắt; nghĩ đến con nên trốn ra đi đặng biệt tích cho rồi, thì đau đớn đi không đành. Hai cha con ngồi khít một bên nhau, cha thì lo, con thì tính, cả hai đều lặng thinh ; song một lát thằng Tí đụng cánh tay nó vào cánh tay cha nó một cái, dường như nó thăm chừng coi cha nó còn ngồi đó không.
Cha con dan díu bịn rịn cho đến sao Mai mọc, Trần Văn Sửu mới nói rằng:
Cha tính như vầy, để cha nói cho con nghe thử coi được hay không. Cha lấy giấy thuế thân theo dân Thổ	Sum hiệp : sum họp.
 	Thố (phương ngữ Nam Bộ) : cách gọi đồng bào dân tộc thiểu số trước Cách mạng, bây giờ không dùng; ở đây chỉ người Khmer.
, tên cha là Son Rùm, bây giờ cha nói tiếrig Thổ giỏi lắm. Cha tính thôi để cha xuống Láng Thó hoặc Ba Si, cha vô sóc	Sóc (tiếng Khmer): buôn, làng.
 kiếm chỗ ở đậu mà làm mướn. Có như vậy mói khỏi lo ai bắt được, mà lâu lâu con lẻn đến thăm cha.
Theo lòi cha tính đó thì cha còn sống mà cũng như cha chết. Phải giấu tên giấu họ hoài, con đến thăm cũng phải núp lén, không dám đến chán chường	Chán chường: ở đây có nghĩa là thoải mái, thoả thích.
.
Phải vậy mới yên được.
Tính sao cũng được, miễn là con còn có thể gần cha được thôi. Mà cha ở với Thổ, thì cực khổ tội nghiệp cho cha lắm.
Có sao đâu mà tội nghiệp. Hon mười năm nay cha đau lòng cực xác không biết chừng nào mà kể cho xiết. Bây giờ cha được vui lòng rồi, dầu lao khổ tấm thân lại nệ gì. Cha tính phải làm như vậy mới xong, con phải nghe lòi cha mà trở về đi.
Thằng Tí ngồi ngẫm nghĩ mà nói rằng:
Con không đành để cha đi một mình. Con muốn theo cha mà kiếm chỗ cho cha ăn ở yên noi rồi con sẽ về.
Con đi như vậy, ông ngoại không biết con đi đâu, ông ngoại lo sợ, thêm cực lòng(1) cho ông ngoại nữa.
Thôi, cha trở về nhà vói con một chút đặng con thưa với ông ngoại hay, rồi con đi với cha.
Trở về rồi con Quyên nó thấy nó càng khó lòng nữa.
Nó ở dưói nhà bà hương quản, chớ có ở nhà đâu mà thấy.
Trời gần sáng rồi, trở về Giồng Ké, họ gặp cha rồi làm sao ? Không được đâu.
Con trở về, để cha đi một mình, trong ít bữa cha kiếm chỗ ăn ở xong rồi cha sẽ lén về mà cho con hay.
Con không muốn để cha đi một mình. Như cha sợ họ gặp thôi thì cha lên chòi ruộng	Cực lòng: đau đớn trong lòng.
 	Chòi ruộng: lều để canh thú đến phá cây cối, hoa màu ở ruộng.
 của con ở trong làng Phú Tiên, cha nằm đó mà chờ con. Con chạy về Giồng Ké thưa với ông ngoại một chút xíu rồi con trở lại liền.
Trần Văn Sửu ban đầu còn dục dặc“Vi hành" (nguyên văn tiếng Pháp incognito, có nghĩa là không ai biết): đi một cách kín đáo, chỉ việc vua cải trang thành thường dân đi lẫn vào dân chúng để tìm hiểu sự thật về dân tình (hoặc để chơi bời mà không ai biết - tác giả dùng theo nghĩa mỉa mai này trong trường họp Khải Định).
về tác giả Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sẽ có bài học riêng ở chương trình Ngữ văn lóp 12.
, mà bị con thôi thúc quá, anh ta không thể không làm vừa lòng nó được, nên phải đứng dậy mà đi với nó trở lên Phú Tiên.
(HỒ BIỂU CHÁNH, Cha con nghĩa nặng, NXB Đức Lưu Phương, Sài Gòn, 1938)
HƯỚNG DẪN ĐỌC THÊM
Đọc kĩ đoạn trích, gắn phần tóm tắt truyện ở trên với diễn biến sự việc trong đoạn trích thành một mạch truyện xuyên suốt.
Phân tích, làm rõ tình nghĩa cha con trong đoạn trích (tình cha đối với con, tình con đối với cha).
Để thể hiện chủ đề “cha con nghĩa nặng”, tác giả đã tạo ra những tình huống nghệ thuật có kịch tính cao (mâu thuẫn giữa tình cha thương con và hạnh phúc của con, giữa hạnh phúc của con vói tình con thương cha). Hãy tìm hiểu và làm rõ tình huống nghệ thuật giàu kịch tính đó.
Qua hai nhân vật Trần Văn Sửu và thằng Tí, hãy nêu lên vài cảm nghĩ về tính cách con ngưòi Nam Bộ.
Nhận xét về nghệ thuật kể chuyện, miêu tả nhân vật, sử dụng ngôn ngữ trong đoạn trích.