SGK Ngữ Văn 11 - Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 1
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 2
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 3
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 4
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 5
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 6
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 7
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 8
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 9
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 10
VÃN TÊ NGHĨA si CÁN GIUỘC— NGUYỄN ĐỈNH CHĩỂư
KET QUA CAN ĐẠT
Nắm được những nét chính về cuộc đời, nghị lực, nhân cách và giá trị thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu.
Cảm nhận được vẻ đẹp bi tráng của bức tượng đài nông dân nghĩa sĩ có một không hai trong lịch sử văn học trung đại và tiếng khóc đau thương cúa Nguyễn Đình Chiểu cho một thời kì "khố nhục nhưng vĩ đại" của dân tộc.
Hiếu những nét cơ bản về thể văn tế và thấy được giá trị nghệ thuật đặc sắc cúa bài văn tế.
PHẦN MỘT: TÁC GIẢ
- cuộc ĐỜI
Nguyễn Đình, Chiểu (1822 - 1888) tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai	Hối Trai : cái phòng tối. Sau khi bị mù, Nguyễn Đình Chiểu mới lấy tên hiệu này.
, sinh tại quê mẹ - làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành
Nguyễn Đình Chiểu
phố HỒ Chí Minh). Ông xuất thân trong gia đình nhà nho, cha là Nguyễn Đình Huy, người Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên - Huế), vào Gia Định làm thư lại tại dinh Tổng ưấn Lê Văn Duyệt. Ở đây, ông lấy bà Trương Thị Thiệt làm vợ thứ, sinh ra Nguyễn Đình Chiểu. Năm 1843, Nguyễn Đình Chiểu đỗ tú tài tại trường thi Gia Định. Năm 1846, ông ra Huế học, chuẩn bị thi tiếp tại quê cha, nhưng lúc sắp vào trường thi thì nhận được tin mẹ mất, phải bỏ thi ưở về Nam chịu tang (1849). Dọc đường về, Nguyễn Đình Chiểu bị đau mắt nặng rồi bị mù. Không khuất phục trước số phận oan nghiệt, Nguyễn Đình Chiểu về Gia Định mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân, và tiếng thơ Đồ Chiểu cũng bắt đầu vang khắp miền Lục tỉnh.
Khi giặc Pháp đánh vào Gia Định (1859), người trí thức yêu nước Nguyễn Đình Chiểu đã đứng vững trên tuyến đầu của cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, cùng cấc lãnh tụ nghĩa quân bàn mưu tính kế đánh giặc và sáng tác những vần thơ cháy bỏng căm hờn, sôi sục ý chí chiến đấu. Nam Kì mất, ông ở lại Ba Tri (Bêh Tre). Thực dân Pháp tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc, nhưng ông khảng khái khước từ tất cả, giữ trọn tấm lòng thuỷ chung son sắt với nước với dân cho đến hoi thở cuối cùng.
II-Sự NGHIỆP THƠ VĂN
Những tác phẩm chính
Nguyễn Đình Chiểu là một trong nhũng nhà thơ đầu tiên ở Nam Kì sáng tác chủ yếu bằng chữ Nôm. Cuộc đời sáng tác của ông chia làm hai giai đoạn, trước và sau khi thực dân Pháp xâm lược. Ở giai đoạn đầu, ông viết hai truyện thơ dài: Truyện Lục Vân Tiên và Dương Từ - Hà Mậu, đều nhằm mục đích truyền bá đạo lí làm người. Đến giai đoạn sau, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là lá cờ đầu của văn thơ yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX với những tác phẩm xuất sắc về cả nội dung tư tưởng, tình cảm và nghệ thuật như Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Thơ điếu Trương Định, Thơ điếu Phan Tòng, Vãn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh, Ngư Tiều y thuật vấn đáp (còn gọi là Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca, một truyện thơ dài).
Bằng ngòi bút, Nguyễn Đình Chiểu đã suốt đời chiến đấu không mệt mỏi cho đạo đức, chính nghĩa, cho độc lập tự do của dân tộc :
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
(Dương Từ - Hà Mậu)
Nội dung thơ văn
Lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa : Nguyễn Đình Chiểu viết Truyện Lục Vân Tiên nhằm mục đích truyền dạy những bài học về đạo làm người chân chính. Đạo lí làm người của Nguyễn Đình Chiểu mang tinh thần nhân nghĩa của đạo Nho, nhưng lại rất đậm đà tính nhân dân và truyền thống dân tộc. Những mẫu người lí tưởng trong tác phẩm là những con người sống nhân hậu, thuỷ chung, biết giữ gìn nhân cách thẳng ngay, cao cả, dám đấu tranh và có đủ sức mạnh để chiến thắng những thế lực bạo tàn, cứu nhân độ thế: “Tôi xin ra sức anh hào - Cứu người cho khỏi lao đao buổi này".
Lòng yêu nước, thương dân: Khi cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp nổ ra, từ trên đỉnh cao của tư tưởng, tình cảm thời đại là lòng yêu nước thương dân, Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác nhũng tác phẩm đáp úng xuất sắc yêu cầu của cuộc chiến đấu giữ nước buổi ấy. Thơ văn yêu nước chống Pháp của Nguyễn Đình Chiểu ghi lại chân thực một thòi đau thương của đất nước, khích lệ lòng căm thù giặc và ý chí cứu nước của nhân dân ta, đồng thòi nhiệt liệt biểu dương những anh hùng nghĩa sĩ đã chiến đấu, hi sinh vì Tổ quốc. Ồng tố cáo tội ác giặc xâm lãng gây bao thảm hoạ cho nhân dân (Chạy giặc, Văn tếnghĩa sĩ trận vongLục tính'}, ông lên án những kẻ sẵn sàng đổi hình tóc râu để chịu chữ đầu Tây. Ông ngợi ca những sĩ phu yêu nước như Trương Định, Phan Tòng vẫn nặng lòng vói hai chữ trung quân nhưng vì đại nghĩa của dân tộc, đã dám chống lại chiếu chỉ nhà vua, phất cao cờ nghĩa, cùng nhân dân chiến đấu đến hoi thở cuối cùng: “Bỏi lòng chúng chảng nghe thiên tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền(1); theo bụng dân phải chịu tướng quân phù	Mã tiền : trước đầu ngựa, ý nói những người dân đã đến ngăn trước đầu ngựa.
 	Tướng quân phù : ấn tín của tướng lĩnh.
, gánh vác một vai khổn ngoại	Khổn ngoại: ngoài ngạch cửa (thành), chỉ trách nhiệm và công việc của người làm tướng.
” (Văn tếTrương Định}. Dưói ngọn cờ đó là đông đảo những người nông dân nghèo khổ, suốt đòi cui cút làm ăn, bời mến nghĩa làm quân chiêu mộ, đánh giặc vói ý chí: “Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh... Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen...” (Văn tếnghĩa sĩ cần Giuộc}. Ngay cả trong thất bại, dân tộc này vẫn không bao giờ chịu khom lrmg, uốn gối trước kẻ thù. Kì Nhân Sư, người thầy thuốc giỏi ưong Ngư Tiều y thuật vấn đáp, dẫu không thể làm gì để cứu vãn tình thế đất nước, vẫn biểu thị tấm lòng kiên trung bất khuất bằng cách tự xông đôi mắt mình cho mù chứ không chịu phụng sự quân giặc, để lại cho đòi bài học nhân sinh cao cả: “Dù đui mà giữ đạo nhà - Còn hơn có mắt ông cha không thờ”.
Nghệ thuật thơ văn
về nghệ thuật, thơ vãn Nguyễn Đình Chiểu có nhiều đóng góp quan trọng, nhất là văn chương trữ tình đạo đức. vẻ đẹp của thơ văn ông không phát lộ rực rỡ ở bề ngoài mà tiềm ẩn trong tầng sâu của cảm xúc, suy ngẫm. Bút pháp trữ tình xuất phát từ cõi tâm trong sáng, nhiệt thành, đầy tình yêu thương con người của nhà thơ, bao giờ cũng nồng đậm hơi thở cuộc sống, tự nó đã tạo nên sức rung động mãnh liệt sâu xa. Đặc biệt, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu còn rất đậm đà sắc thái Nam Bộ. Mỗi người dân Nam Bộ đều có thể bắt gặp mình ở các nhân vật của ông, từ lời ăn tiếng nói mộc mạc, bình dị đến tâm hồn nồng nhiệt, chất phác, cách cư xử khoáng đạt, hồn nhiên... Lối thơ thiên về kể trong các truyện của ông cũng mang màu sắc diễn xướng rất phổ biến trong vãn học dân gian Nam Bộ.
Đó là những yếu tố cơ bản tạo nên giá trị thẩm mĩ đặc sắc của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Truyện Lục Vân Tiên, Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc,... xứng đáng là những tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam cuối thòi trung đại.
*
* *
Đã hơn một thế kỉ trôi qua, tiếng thơ Đồ Chiểu vẫn ngân vang giữa cuộc đời.
Tên tuổi nhà thơ mù xứ Đồng Nai vẫn rực sáng bầu tròi văn nghệ dân tộc bởi nhân cách cao đẹp và những cống hiến lớn lao của ông cho vãn học nước nhà.
HƯỚNG DẪN HỌC BÀI
Nêu những nét chính về cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu. Anh (chị) cảm nhận sâu sắc điều gì qua cuộc đời nhà thơ ?
Tìm hiểu giá trị thơ vãn Nguyễn Đình Chiểu :
Dựa vào những đoạn trích đã học về Truyện Lục Văn Tiên (ở lóp 9 và lóp 11), hãy cho biết lí tưởng đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu được xây dựng chủ yếu trên cơ sở tình cảm nào.
Nội dung trữ tình yêu nước trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu ? Tác động tích cực của những sáng tác thơ văn ấy đối với cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp đương thời ?
Theo anh (chị), sắc thái Nam Bộ độc đáo của thơ vãn Nguyễn Đình Chiểu biểu hiện ở những điểm nào ?
3*. Với những kiến thức đã học về Nguyễn Trãi và Nguyễn Đình Chiểu, anh (chị) cảm nhận được điều gì gần gũi về tư tưởng nhân nghĩa giữa hai nhà thơ này ? Hãy trình bày ý kiến của mình.
	GHI NHỚ	
, s .	I
Cuộc đời Nguyễn Đình Chiếu là một tấm gương trong sáng, cao đẹp về nhân cách, nghị lực và ý chí, về lòng yêu nước, thương dân và thái độ kiên trung, bất khuất trước kẻ thù. Thơ văn ông là một bài ca đạo đức, nhân nghĩa, là tiếng nói yêu nước cất lên từ cuộc chiến đấu chống quân xâm lược, là thành tựu nghệ thuật xuất sắc mang đậm sắc thái Nam Bộ.
\	'	J
LUYỆN TẬP
Căn cứ vào những kiến thức đã học về Nguyễn Đình Chiểu và các tác phẩm của ông, anh (chị) suy nghĩ như thế nào về nhận định của nhà thơ Xuân Diệu: “Cái ưu ái đọi với người lao động, sự kính mến họ là một đặc điểm của tâm hồn Đồ Chiểu ”	Đọc lại thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, trong Nguyễn Đình Chiểu, tấm gưongyêu nước và lao động nghệ thuật, NXB Khoa học xã hội. Hà Nội, 1973.
 ?
PHẦN HAI: TÁC PHẨM
TIỂU DẪN
Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc (1) là bài văn Nguyễn Đình Chiểu viết theo yêu cầu của Đỗ Quang, tuần phủ Gia Định, để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tập kích đồn quân Pháp ở cần Giuộc đêm 16-12- 1861. Nghĩa quân giết được tên quan hai Pháp và một số lính thuộc địa, làm chủ đồn hai ngày rồi bị phản công và thất bại. Nghĩa quân hi sinh khoảng 20 người. Trong bối cảnh cuộc chiến đấu không cân sức những ngày đầu chống Pháp, khi toàn dân tộc đang quyết một lòng thà chết vinh còn hơn sống nhục, sự hi sinh vì đại nghĩa này quả có sức cổ vũ và khích lệ to lớn. Bởi thế, bài văn ngay lập tức được truyền tụng khắp noi trong nước, làm xúc động lòng người. Có thể nói lần đầu tiên trong văn học dân tộc, người nông dân nghĩa sĩ chống ngoại xâm đã được dựng một bức tượng đài nghệ thuật bất tử.
Vãn tế là một loại vãn thường gắn với phong tục tang lễ, nhằm bày tỏ lòng tiếc thưcmg đối với người đã mất. Văn tế thường có hai nội dung cơ bản : kể lại cuộc đời, công đức, phẩm hạnh của người đã khuất và bày tỏ nỗi đau thương của người sống trong giờ phút vĩnh biệt. Âm hưởng chung của bài văn tế là bi thương, nhưng sắc thái biểu cảm ở mỗi bài có thể khác nhau. Có bài chỉ thuần tuý là một tiếng khóc (Văn tế Trương Quỳnh Như của Phạm Thái) nhưng cũng có bài mang tính sử thi bi tráng (Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế Phan Châu Trinh của Phan Bội Châu). Đặc biệt, có khi văn tế còn được viết trong những hoàn cảnh khác, nhằm mục đích khác (ví dụ Tú Xương làm Văn tế sống pợvới giọng hài hước, dí dỏm, hay các nhà văn cách mạng sau này có thể làm văn tế bọn thực dân, đế quốc để đả kích, châm biếm). Văn tế có thể được viết theo nhiều thể: văn xuôi, thơ lục bát, song thất lục bát, phú,... (Bài văn tế này viết theo thể phú Đường luật, có vần, có đối). Giọng điệu vãn tế nói chung là lâm li, thống thiết, sử dụng nhiều thán từ và những tù ngữ, hình ảnh có giá trị biểu cảm mạnh. Bố cục của bài vãn tế thường có bốn đoạn: đoạn mở đầu (lung khởi) luận chung về lẽ sống chết, thường khởi xướng bằng những từ Thương ôi!, Hỡi ôi!; đoạn thứ hai (thích thực) kể công đức, phẩm hạnh, cuộc đời của người đã khuất, thường bắt đầu bằng cụm từ Nhớ linh xưa ; đoạn thứ ba (ai vãn) nói lên niềm thương tiếc đối với người đã chết; đoạn thứ tư (kết) bày tỏ lòng tiếc thương và lời cầu nguyện của người đứng tế.
VĂN BẢN
Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền ; lòng dân tròi tỏ.
Mười năm công vỡ ruộng, chưa ất còn danh nổi như phao ; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ	Nghĩa sĩ: người có chí khí, không quản ngại hi sinh vì việc nghĩa như cứu người, cứu nước. Cần Giuộc: nay thuộc tỉnh Long An.
 	Cả câu này ý nói: Mười năm làm ruộng, chưa chắc đã được ai biết đến tên tuổi; một trận nghĩa đánh Tây, tuy hi sinh nhưng tiếng thơm còn mãi.
.
Nhớ linhw xưa:
Cui cút làm ăn ; toan lo nghèo khó	Linh: linh hồn; ở đây chỉ người đã chết.
 	Cui cút (côi cút) : bơ vơ, không nơi nương tựa. Cả câu ý nói âm thầm, lặng lẽ làm ăn mà vẫn nghèo khó suốt đời.
 	Trường nhung: bãi chiến trường.
.
Chưa quen cung ngựa, đâu tói trường nhungí3) ; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ	Làng bộ : chỉ làng xóm, có bản chép là làng hộ.
.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm ; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Tiếng phong hạc	Phong hạc: lấy ở câu Phong thanh hạc lệ, thảo mộc giai binh, nghĩa gốc chỉ sụ hồi hộp, lo lắng, nghe tiếng gió thổi, tiếng chim hạc kêu, thấy cây cỏ cũng tưởng là quân giặc đuổi đánh. Ở câu này chỉ có nghĩa là tin kẻ địch đến.
 phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa ; mùi tinh chiên	Mùi tinh chiên : mùi tanh hôi, ở đây chỉ thực dân Pháp.
 	Vấy vá: làm dơ bẩn, dây dính bậy bạ.
 vấy váC7) đã ba năm, ghét thói mọi	Thói mọi: thói tật mọi rợ, dã man (của thực dân Pháp).
 như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong	Bòng bong: vải che nắng, vỉ buồm trên boong tàu.
 che trắng lốp, muốn tói ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Một mối xa thư	Xa thư: xe cộ và chữ viết (do câu Xa đồng quỹ, thư đồng văn, có nghĩa là trục bánh xe có cùng độ dài, sách viết cùng một lối chữ), ý chỉ một quốc gia độc lập, có chủ quyền.
 	Chém rắn : chém kẻ cản đường. Đuổi hươu : giành lấy đất nước. Cả vê câu Một môi xa thư... chém rắn đuổi hươu ý nói: Nước ta là một khối thống nhất, đang bị xâm lược, lẽ nào còn chờ ai đứng lên giành lại hộ, tức là phải tự mình nhận lấy sứ mệnh bảo vệ đất nước.
 đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu(11); hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Nào đọi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình	Đoạn kình : chém cá kình, loài cá to và dữ tợn ngoài biển.
; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ	Bộ hổ: bắt hổ. Đoạn kình, bộ hổ: ý nói ra sức tiêu diệt giặc.
.
Khá thương thay!
Vốn chẳng phải quân cơ quân vệ	Cơ, vệ: các loại đon vị quân đội thòi phong kiến.
Theo dòng: theo dòng dõi cha ông.
Diễn binh : luyện tập việc binh.
Mến nghĩa làm quàn chiêu mộ [chiêu: vời, mời; mộ: cầu, tìm): lúc này, nhiều sĩ phu yêu nước đã dựng cờ nghĩa, chiêu mộ nghĩa quân đánh Pháp. Nhũng người nông dân vì mến nghĩa mà tự nguyện gia nhập nghĩa quân.
Cật: lưng.
Bao tấu : bao đựng dao, mã tấu.
Bầu ngòi: bao đựng thuốc đạn, ngòi nổ.
Tầm vông: loại tre đặc ruột, rất cứng, thường dùng làm gậy thay cho vũ khí.
Dao tu : loại dao lưỡi dài, sắc bén, thường buộc vào lưng, dùng để đốn cây, giết giặc.
Nón gõ: nón đội của lính ngày xưa.
, theo dòng(2) ở lính diễn binh(3); chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ(4).
Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn ; chín chục trận binh thư, không chờ bày bố.
Ngoài cật® có một manh áo vải, nào đọi mang bao tấu(6), bầu ngòi(7); trong tay cầm một ngọn tầm vông(8), chi nài sắm dao tu(9), nón gõ(10).
Hoả mai	Hoả mai: mồi nhóm lửa, đồ làm bằng vật nhạy bắt lửa ; thường dùng để châm ngòi nổ cho một loại súng cổ (súng hoả mai).
Rom con cúi: rom bện chật thành cuộn dài để làm mồi lửa.
Mã tà (phiên âm theo tiếng Ma-lai-xi-a : mata) : lính cãnh sát.
Ma ní (phiên âm tên thú đo của Phi-líp-pin là Ma-ni-la): lính thuộc địa tuyến mộ ỚPhi-lip-pin.
Bọn, lũ : chi nhiều người, khóng có ý khinh thị.
Có bản chép là tàu thiếc.
Xác phàm : xác của con người trần tục.
 đánh bằng rơm con cúi(12), cũng đốt xong nhà dạy đạo kia ; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà(13) ma ní(14) hồn kinh ; bọn hè trước, lũ(15) ó sau, trối kệ tàu sắt(16) tàu đồng súng nổ.
Ôi!
Những lãm lòng nghĩa lâu dùng ; đâu biết xác phàm(17> vội bỏ.
Một chắc sa trường rằng chữ hạnh	Hạnh : may mắn.
Da ngựa bọc thây: chỉ cái chết ở noi chiến trường. Cả vế câu ý nói: Chốn sa trường nhũng mong gặp may mắn, nào ngờ đã phải hi sinh.
Quy: về, có nghĩa là chết. Theo triết lí đạo Phật, sống là gửi, thác là về {sinh kí, tử quy).
Gươm hùm treo mộ : theo tích cổ Trung Quốc, một nghĩa sĩ thời Chiến quốc khi chết đã dặn con treo cây gưom trên mộ để tỏ chí nguyện chưa thành.
Chợ Trường Bình : thuộc cần Giuộc.
Vi binh : làm lính. Hiệu lực: ở đây hiểu là hết sức làm việc. Cả câu ý nói: Chẳng phải vì mác tội mà bị buộc phải làm lính để lập công chuộc tội.
Tài bồi: vun đắp, vun trồng. Cả câu ý nói: Tấc đất, ngọn rau đều là on vua (bao đời) vun đắp cho nước nhà ta ; bát com manh áo của ta, mắc mớ gì đến ông cha chúng nó (mà chúng nó cưóp đi).
Tá đạo : chỉ đạo Thiên Chúa.
Vùa hưong: bát hưong, lư hưong trên bàn thờ.
Bàn độc: bàn thờ.
, nào hay da ngựa bọc thây(2); trăm năm âm phủ ấy chữ quyí3), nào đợi gưom hùm treo mộ(4).
Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình(5), già trẻ hai hàng Iuỵ nhỏ.
Chảng phải án cưóp án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm ; vốn không giữ thành giữ luỹ bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số(6).
Nhưng nghĩ rằng:
Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồit7) cho nước nhà ta ; bát cơm manh áo ở đòi, mắc mớ chi ông cha nó.
Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương ; vì ai xui đồn luỹ tan tành, xiêu mưa ngã gió.
Sống làm chi theo quân tả đạo(8), quăng vùa hươngí9), xô bàn độc(10), thấy lại thêm buồn ; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái	Địch khái: tinh thần, ý chí chống ké thù.
Tố phụ : ông nội, ở đây chỉ tố tiên nói chung.
Man di: chỉ thực dân Pháp.
, về theo tổ phụll2) cũng vinh ; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di(13) rất khổ.
Oi thôi thôi!
Chùa Tông Thạnh	Chùa Tông Thạnh : có bản chép là Tôn Thạnh, tên một ngôi chùa ở cần Giuộc mà nghĩa quân đã sử dụng làm căn cứ chống giặc.
Ưng: phải, chịu.
Đồn Lang Sa [Lang sa : gọi tắt từ Pha-lang-xa, phiên âm tiếng Pháp : France): chỉ những đồn binh Pháp đóng ở bên kia chọ cần Giuộc.
Tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ: ý nói về sự hi sinh của nghĩa quân. Khi quân Pháp phản công, họ rút lui, boi qua sông cần Giuộc và bị súng trên tàu chiến giặc bắn chết.
Dật dờ (như vật vờ) : vất vơ vất vưởng.
Tiết rỡ: danh tiếng rạng rỡ.
Con đó : đứa trẻ mói sinh còn đỏ hỏn (xích tử), nghĩa bóng chỉ nhân dân (ý nói nhân dân cần được chăm sóc, bảo vệ như trẻ sơ sinh).
Rồi nợ: trả xong nợ nước non.
Chúng: dân chúng, mọi người.
Ưng: ở câu này có nghĩa là “được”.
 	Lời dụ : lời dạy bảo.
Chữ ấm : ân trạch, chức tước mà con cái những người làm quan, ngưòi có công lao với triều đình được thừa hưởng (gọi là được tập ấm).
Thiên dân : dân của trời. Theo quan niệm phong kiến, vua là con trời (thiên tủ), cho nén nhãn dân trong nước đều là tôi con của vua, tất cả đất đai trong nước cũng đều là của vua (vương thố). Cả câu ý nói: Nước mắt khóc những người anh hùng lau mãi cũng không khô, cảm thương nhân dân (đang phải khổ đau); thắp nén hương thơm tưởng nhớ người nghĩa sĩ, lại chạnh lòng nghĩ đến nước non (đang bị quân giặc giày xéo).
 năm canh ưng(2) đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm ; đồn Lang Sat3) một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ(4).
Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều ; não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, con bóng xế dật dờ(5) trước ngõ.
Ôi!
Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ(6).
Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen ; ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ(7).
Thác mà trả nước non rồi nợ(8), danh thom đồn sáu tỉnh chúng(9) đều khen ; thác mà ưng™ đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muốn đời ai cũng mộ.
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia ; sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụlll) dạy đã rành rành, một chữ ấm(12) đủ đền công đó.
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân ; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bỏi một câu vương thổ(13).
Hỡi ôi thương thay!
Có linh xin hưởng.
(Theo Thơ văn Nguyễn Đình Chiếu, NXB Văn học Giải phóng, TP. Hồ Chí Minh, 1976)
HƯỚNG DẦN HỌC BÀI
«
Đọc Tiểu dẫn, nắm những nét cơ bản về thể văn tế. Tìm bố cục của bài văn tế này.
Hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ được táỉ hiện trong bài văn tế như thế nào ? (Chú ý phân tích qua cả quá trình : hình ảnh họ trong cuộc sống bình thường, những biến chuyển khi quân giặc xâm phạm tấc đất ngọn rau, bát com manh áo, vẻ đẹp hào hùng của đội quân áo vải trong trận nghĩa đánh Tây.)
Theo anh (chị), cách miêu tả này đạt giá trị nghệ thuật cao ở những điểm nào (về nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật ngôn ngữ, bút pháp trữ tình,...) ?
Tiếng khóc bi tráng của tác giả xuất phát từ nhiều nguồn cảm xúc. Theo anh (chị), đó là những cảm xúc gì ? Vì sao tiếng khóc đau thương này lại không hề bi luỵ ?
Sức gợi cảm mạnh mẽ của bài văn tế chủ yếu là do những yếu tố nào ? Hãy phân tích một số câu tiêu biểu.
	GHI NHỚ	
Văn tế nghĩa sĩ cần Ciuộc cúa Nguyễn Đình chiểu là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sứ đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc, là bức tượng đài bất tử về những người nông dân nghĩa sĩ cần Giuộc đã dũng cảm chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc. Bài văn cũng là một thành tựu xuất sắc về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực ; ngôn ngữ bình dị, trong sáng, sinh động.
LUYỆN TẬP
Đọc diễn cảm bài văn tế.
Nói về quan niệm sống của ông cha ta thòi kì đầu kháng chiến chống Pháp, Giáo sư Trần Vãn Giàu đã viết: “Cái sống được cha ông ta quan niệm là không thể tách rời với hai chữ nhục, vinh. Mà nhục hay vinh là sự đánh giá theo thái độ chính trị đối với cuộc xâm lược của Tây : đánh Tây là vinh, theo Tây là nhục”	Họp tuyển thơ văn yêu nước nửa sau thế ki XIX, NXB Văn học, Hà Nội, 1970.
. Anh (chị) hãy viết một đoạn văn phân tích những câu trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc thể hiện đầy đủ, sâu sắc triết lí nhân sinh đó.