Tuần 12. Có Chí Thì Nên

  • Tuần 12. Có Chí Thì Nên trang 1
  • Tuần 12. Có Chí Thì Nên trang 2
  • Tuần 12. Có Chí Thì Nên trang 3
  • Tuần 12. Có Chí Thì Nên trang 4
  • Tuần 12. Có Chí Thì Nên trang 5
  • Tuần 12. Có Chí Thì Nên trang 6
  • Tuần 12. Có Chí Thì Nên trang 7
  • Tuần 12. Có Chí Thì Nên trang 8
  • Tuần 12. Có Chí Thì Nên trang 9
  • Tuần 12. Có Chí Thì Nên trang 10
Tuần 12.
TẬP DỌC “Vua tàu thủy” Bạch Thái Bưởi
CÁCH ĐỌC
Giọng kể chậm rãi ở đoạn trước khi Bạch Thái Bưởi chạy tàu thủy (1 và 2), nhanh hơn ở đoạn Bạch Thái Bưởi cạnh tranh và chiến thắng các chủ tấu nước ngoài.
Chú ý nhân giọng các từ mồ côi, khôi ngô, đủ mọi nghề, trắng tay, không nản chí, độc chiếm, thịnh vượng, ba mươi, bậc anh hùng.
GỢl ý tìm hiểu bài
Trước khi chạy tàu thủy, đầu tiên Bạch Thái Bưởi làm thư kí cho một hãng buôn gỗ, buôn ngô, mở hiệu cầm đồ, lập nhà in, khai thác mỏ.
Bạch Thái Bưởi đã thắng trong cuộc cạnh tranh không ngang sức với các chủ tàu người nước ngoài. Ông đã khơi dậy lòng tự hào dân tộc của người Việt Nam chúng ta: cho người đến các bến tàu diễn thuyết kêu gọi: “Người ta phải đi tàu ta”. Nhờ đó, khách đi tàu của ông ngày một đông hơn. Nhiều chủ tàu người Hoa, người Pháp phải bán tàu cho ông. Ông mua xưởng sửa chữa, thuê kĩ sư trông nom chăm sóc.
“Một bậc anh hùng kinh tể” là người giành đươc những thành tích lớn, những thắng lơi phi thường trong lĩnh vực kinh doanh.
Bạch Thái Bưởi thành công là nhờ lòng vững chí vươn lên, thất bại không chán nản. Ngoài ra ông còn biết khơi dậy tinh thần dân tộc của hành khách người Việt và nhất là biết tổ chức công việc kinh doanh của mình.
Nội dung: Ca ngợi Bạch Thái Bưởi, từ một cậu bé mồ côi cha từ nhỏ, nhưng nhờ giàu ý chí và nghị lực nên đã trở thành một nhà kinh doanh tài giỏi.
CHÍNH TẢ	Người chiến sĩ giàu nghị lực
Nghe viết
Chú ý những tiếng có âm, vần để lẫn: tr/ch, ươn/ương
Điền vào chỗ trống
Trung Quốc - chín mươi tuổi - hai trái núi - chắn ngang - chê cười - chết - cháu - truyền nhau - chẳng thế - Trời - trái núi.
vươn lên - chán chường - thương trường - khai trương - đường thủy - thịnh vượng.
LUYỆN TỪ VÀ CÂU
Mở rộng vốn từ: Ý chí- Nghị lực
Xếp cóc từ có tiếng “chí” vào hai nhóm trong bảng:
Chí có nghĩa là rất, hết sức (biểu thị mức độ cao nhất)
Chí có nghĩa là ý muôn bền bỉ theo đuổi một mục đích tốt đẹp
chí phải, chí lí, chí thân, chí tình, chí công, ý chí, chí khái, chí hướng, qưyết chí
Dòng b: Sức mạnh tinh thần làm cho con người kiên quyết trong hành động, không lùi bước trước mọi khó khăn nên đúng nghĩa của từ nghị lực.
Nguyễn Ngọc Ký là một thiếu niên giàu nghị lực. Bị liệt cả hai tay, em buồn nhưng không nản chí. Ở nhà em tự tập viết bằng chân. Quyết tâm của em làm cho cô giáo cảm động, nhận em vào học. Trong quá trình học tập, cũng có lúc Ký thiếu kiên nhẫn, nhưng được cô giáo và các bạn luôn tận tình giúp đỡ, em càng quyết chí học hành. Cuôì cùng, Ký đã vượt qua mọi khó khăn. Tô't nghiệp một trường đại học nổi tiếng, Nguyên Ngọc Ký đạt nguyện vọng trở thành thầy giáo và được tặng danh hiệu cao quý Nhà giáo Ưu tú.
“Lửa thử vàng, gian nan thử sức” khuyên người ta đừng sợ gian nan, vất vả, thử thách vì những khó khăn đó làm cho con người vững vàng, cứng cỏi hơn.
“Nước lã mà vã nền hồ. Tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan” khuyên người ta đừng ngại bắt đầu từ tay trắng mà làm nên sự nghiệp mới là người đáng nể phục.
“Có vất vả mới thanh nhàn. Không dưng ai dễ cầm tàn che cho” khuyên người ta phải làm lụng vất vả mới có lúc thanh nhàn, thành đạt.
KỂ CHUYỆN	Kể chuyện đã nghe, đã đọc
Dề bài: Hãy kể một câu chuyện mà em đã được nghe hoặc được đọc về một người có nghị lực.
CÓ công mài sắt có ngày nên kim
Ngày xưa, có một cậu bẹ làm việc gì cũng mau chán. Mỗi khi cầm quyển sách, cậu chỉ đọc vài dòng đã ngáp ngắn, ngáp dài rồi bỏ dở. Những lúc tập viết, cậu cũng chỉ nắn nót được mấy chữ đầu, rồi lại viết nguệch ngoạc, trông rất xấu.
Một hôm, trong lúc đi chơi, cậu nhìn thấy một bà cụ tay cầm thỏi sắt mải miết mài vào tảng đá ven đường. Thấy lạ, cậu bèn hỏi:
Bà ơi, bà làm gì thế?
Bà cụ trả lời:
Bà mài thỏi sắt này thành một chiếc kim để khâu vá quần áo.
Cậu bé ngạc nhiên:
Thỏi sắt to như thế, làm sao bà mài thành kim được?
Bà cụ ôn tồn giảng giải:
Mỗi ngày mài thỏi sắt nhỏ đi một tí, sẽ có ngày nó thành kim. Giông như cháu đi học, mỗi ngày cháu học một ít, sẽ có ngày cháu thành tài.
Cậu bé hiểu ra, quay về nhà học bài.
Truyện ngụ ngôn (Tiếng Việt - lớp 2)
TẬP ĐỌC	Vẽ trứng
CÁCH ĐỌC
Giọng từ tôn nhẹ nhàng. Chú ý lời khuyên bảo của thầy giáo ân cần, trìu mến và đoạn cuôì đọc với cảm hứng ca ngợi.
GỢl ý tìm hiểu bài
Trong những ngày đầu học vẽ, cậu bé Lê-ô-nác-đô cảm thấy chán ngán vì vào lớp suốt mười mấy ngày liền cậu phải vẽ rất nhiều trứng.
Thầy Vê-rô-ki-ô cho học trò vẽ trứng như thế để tập quan sát sự vật một cách tỉ mỉ và thể hiện nó trên giấy vẽ thật chính xác.
Lê-ô-nác-đô đa Vin-xi đã trở thành một nhà đại danh họa, tác phẩm của ông được trình bày ở nhiều nhà bảo tàng lớn. Ông là niềm tự hào của nhân loại.
Nói đến Lê-ô-nác-đô đa Vin-xi còn nói đến một nhà điêu khắc, kiến trúc sư, kĩ sư, nhà bác học lớn của thời đại Phục hưng.
Những nguyên nhân khiến Lê-ô-nác-đô đa Vin-xi trở thành họa sĩ nổi tiếng là:
Năng khiếu bẩm sinh
Gặp được thầy hay
Dùng công khổ luyện
Trong những nguyên nhân vừa kể, nguyên nhân quan trọng nhất là do ông đã dùng công khổ luyện nhiều năm.
Nội dung: Nhờ kiên trì rèn luyện nên Lê-ô-nác-đô da Vin-xi đã trở thành một họa sĩ thiên tài.
TẬP LÀM VĂN
Kết bài trong bài văn kể chuyện
NHẬN XÉT
Đọc lại truyện ông Trạng thả diều
Đoạn kết của truyện này:
Thê' rồi vua mở khoa thi. Chú bé thả diều đỗ Trạng nguyên. Óng Trạng khi ấy mới có mười ba tuổi. Đó là ông Trạng nguyên trẻ nhất của nước Nam ta.
Đọc truyện này, em càng thấu hiểu hơn câu tục ngữ: “Người có chí thì nên, nhà có nền thì vững”.
Cách kết bài trước: chỉ nêu kết cục của câu chuyện. (Cách kết bài không mở rộng)
Cách kết bài sau: sau khi nêu kết cục của câu chuyện, còn có lời bình luận thêm. (Cách kết bài mở rộng)
GHI NHỚ	
Có hai cách kết bài:
Kết bài mở rộng: sau khi cho biết kết cục của câu chuyện, có lời bình luận thèm về cảu chuyện
Kết bài không mở rộng: chỉ cho biết kết cục của câu chuyện không bình luận gì thèm.
LUYỆN TẬP
b. Kết bài mở rộng d. Kết bài mở rộng
1. Kết bài theo cách nào
a. Kết bài không mở rộng
Kết bài mở rộng
e. Kết bài mở rộng
Tìm phần kết bài của các truyện
Một người chính trực-. Tô Hiến Thành tâu: “Nếu Thái hậu hỏi người hầu hạ giỏi thì thần xin cử Vũ Tán Đường, còn hỏi người tài ba giúp nước, thần xin cử Trần Trung Tá”. (Kết bài không mở rộng)
Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca-. Nhưng An-đrây-ca không nghĩ như vậy. Cả đêm đó, em ngồi nức nở dưới gốc cây táo do tay ông vun trồng. Mãi sau này, khi đã lớn, em vẫn luôn tự dằn vặt: “Giá mình mua thuốc về kịp thì ông còn sống thêm được ít năm nữa\” (Kết bài không mở rộng)
Viết kết bài theo cách kết bài mở rộng
Một người chính trực:
Tô Hiến Thành tâu: “Nếu Thái hậu hỏi người hầu hạ giỏi thì thần xin củ Vũ Tán Đường, còn hỏi người tài ba giúp nước, thần xin cử Trần Trung Tá”.
Thêm đoạn sau:
Đủ thấy vị quan đứng đầu triều Lý này đúng là một tấm gương sáng ngời về sự chính trực, thanh liêm hết lòng vì nước vì dân tộc cho hậu
. thế soi chung.
Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca: Nhưng An-đrây-ca không nghĩ như vậy. Cả đêm đó, em ngồi nức nở dưới gốc cây táo do tay ông vun trồng. Mãi sau này, khi đã lớn, em vẫn luôn tự dằn vặt: “Giá mình mua thuốc về kịp thì ông còn sống thêm được ít năm nữa!”
Thêm đoạn sau:
Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca cho thấy em là một chú bé trung thực, giàu tình cảm và nhất là rất nghiêm khắc với lỗi lầm của bản thần.
LUYỆN TỪ VÀ CÂU
Tính từ (Tiếp theo)
I. NHẬN XÉT
1. So sánh đặc điểm của các vật:
Tờ giấy này trắng	Mức độ bình thường
Tờ giấy này trăng trắng	Mức độ thấp
Tờ giấy này trắng tinh	Mức độ cao
Tính từ trắng Từ láy trăng trắng Từ ghép tráng tinh
Cách thể hiện ý nghĩa mức độ:
Thêm từ rắt vào trước tính từ trắng -> rất trắng
Tạo ra phép so sánh với các từ hơn, nhất -> trắng hơn, trắng nhất.
GKI NHỠ
Có một số cách thể hiện mức độ của đặc điểm, tính chất như sau:
Tạo ra các từ ghép hoặc từ láy với tính từ đã cho.
Thềm các từ rất, quá, lắm... vào trước hoặc sau tính từ.
Tạo ra phép so sánh.
LUYỆN TẬP
Những từ ngữ biểu thị mức độ của độc điểm, tính chất trong đoạn văn: đậm, ngọt, rất, lắm, ngà, ngọc, ngà ngọc hơn, hơn, hơn.
Những từ ngữ miêu tả mức độ khác nhau của các độc điểm:
Đỏ: — Cách 1: tạo từ ghép, từ láy với tính từ đỏ: đo đỏ, đỏ rực, đỏ hồng, đỏ chót, đỏ chói, đỏ chét, đỏ sậm, đỏ tía, đỏ thắm, đỏ hỏn...
— Cách 2: thêm các từ rất, quá, lắm... vào trước hoặc sau đỏ: rất đỏ, đỏ lắm, đỏ quá, quá đỏ, cực đỏ, đỏ vô cùng...
Cách 3: tạo ra phép so sánh: dỏ hơn, đỏ nhất, đỏ như son, đỏ
hơn son...
Cao: — Cách 1: cao cao, cao vút, cao chót vót, cao vợi, cao vời vợi
Cách 2: rất cao, cao quá, cao lắm...
— Cách 3: cao hơn, cao nhất, cao như núi, cao hơn núi...
Vui: — vui vui, vui vẻ, vui sướng, sướng vui, mừng vui, vui mùng...
rất vui, vui lắm, vui quá...
vui han, vui nhất, vui như Tết, vui hơn Tết...
Đột câu
Mặt trời đỏ rực.
— Bầu trời xanh trong cao vài vơi.
Sáng nay vào lớp, em rất vui sướng đươc thầy khen ngợi.
TẬP LÀM VĂN	Kể chuyện (Kiểm tra viết)
Đề 1:	Kể lại một câu chuyện em đã được nghe hoặc được đọc về một
người có tấm lòng nhân hậu.
Bài tham khảo
Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng
Cụ tổ bên ngoại của Trừng(1), người họ Phạm, huý(2) là Bân, có nghề y gia truyền(3>, giữ chức Thái y lệnh(4) để phụng sự*51 Trần Anh Vương(6).
Ngài thường đem hết của cải trong nhà ra mua các loại thuốc tốt và tích trữ lúa gạo. Gặp kẻ tật bệnh cơ khổ(7), ngài cho ở nhà mình cấp cơm cháo, chữa trị. Dầu bệnh có dầm dề máu mủ, ngài cũng không hề né tránh. Bệnh nhân tới chữa đến khi khỏe mạnh rồi đi. Cứ như vậy, trên giường không lúc nào vắng người.
Bỗng liền năm đói kém, dịch bệnh nổi lên, ngài dựng thêm nhà cho những kẻ khôn cùng đói khát và bệnh tật đến ở, cứu sông hơn ngàn người. Ngài được người đương thời trọng vọng(8).
Một lần có người gõ cửa, mời gấp:
Nhà có người đàn bà, bỗng nhiên nguy kịch, máu chảy như xối, mặt mày xanh lét.
Nghe vậy, ngài theo người đó đi ngay. Nhưng ra tới cửa thì gặp sứ giả do vương sai tới, bảo rằng:
Trong cung có bậc quý nhân(9) bị sốt, vương triệu đến khám.
Ngài nói:
Bệnh đó không gấp. Nay mệnh sông của người nhà người này chỉ ở trong khoảnh khắc. Tôi hãy cứu họ trước, lát nữa sẽ đến vương phủ.(10)
Quan Trung sứ01* tức giận nói:
Phận làm tôi sao được như vậy? ông định cứu mạng người ta mà không cứu mạng mình chăng?
Ngài đáp:
Tôi có mắc tội, cũng không biết làm thế nào. Nếu người kia không được cứu, sẽ chết trong khoảnh khắc, chẳng biết trông vào đâu. Tính mệnh của tiểu thần(12)còn trông cậy vào chúa thượng, may ra thoát. Tội tôi xin chịu.
Nói rồi đi cứu người kia. Họ quả được cứu sông. Lát sau ngài đến yết kiến(14>, vương quở trách. Ngài bỏ mũ ra, tạ tội, bày tỏ lòng thành của mình. Vương mừng nói:
Ngươi thật là bậc lương y(15)chân chính, đã giỏi về nghề nghiệp lại có lòng nhân đức, thương xót đám con đỏ(16) của ta thật xứng với lòng ta mong mỏi.
Về sau, con cháu của ngài làm quan lương y đến hàm ngũ phẩm, tứ phẩmíl7) có tới hai ba vị. Người đời đều khen ngợi họ không để sa sút nghiệp nhà.
Hồ Nguyên Trừng (Nam ông mộng lục lưu Đàm - La Sơn soạn dịch, chú giải, Nguyễn Đăng Na giới thiệu, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, '1999)
Chú thích: Hồ Nguyên Trừng (1374—1446) con trưởng của Hồ Quý Ly, là quan dưới triều vua cha, từng hăng hái chống giặc Minh xâm lược, bị giặc Minh bắt đem về Trung Quốc. Nhờ có tài chế tạo vũ khí, ông được làm quan trong triều nhà Minh tới chức Thượng thư (tương đương vái chức Bộ trường ngày nay). Ông qua đời trên đất Trung Quốc. Nam Ông mộng lục là tác phẩm của Hồ Nguyên Trừng viết trong thài gian ở đây.
Trừng:	tức Hồ Nguyên Trừng.
Huý:	ở đây là tên của người đã chết, thường kiêng không nói đến.
Gia truyền: truyền từ đời này sang đời khác trong phạm vi gia đình.
Thái y lệnh', chức quan trông coi việc chữa bệnh trong cung vua.
Phụng sự: phục vụ hết lòng.
(6)
(7)
(8)
(9)
 (11) (12)
(13)
(14)
(15)
(16)
(17)
Trần Anh Vương tức Trần Anh Tông, làm vua từ năm 1293 đến năm 1314 (Vương: vua; tức cao nhất trong triều đình ngày xưa).
Ca khổ:	đói khổ (cơ: đói).
Trọng vọng', hết sức coi trọng và ngưỡng mộ.
Quý nhân: ở đây có nghĩa là người ở bậc cao sang và được tôn kính.
Vương phủ: nơi ở và làm việc của các bậc vua chúa, quý tộc phong kiến xưa. Trung sứ: một chức quan phục vụ công việc của triều đình.
Tiểu thần: người bề tôi ở bậc nhỏ, thấp, nói theo kiểu nhún nhường.
Chúa thượng', từ dùng để gọi vua chúa một cách tôn kính thời phong kiến. Yết kiến:	ra mắt người bề trên.
Lương y:	thầy thuốc giỏi.
Con đỏ:	dịch nghĩa hai từ xích tử mà ngày xưa vua chúa dùng để chỉ
những người dân thường.
Ngũ phẩm: phẩm hàm bậc năm. Tứ phẩm: phẩm hàm bậc bốn (phẩm: một hình thức chỉ cấp bậc của quan lại ở thời phong kiến. Có chín bậc phẩm hàm. Cao nhất là nhất phẩm - phẩm hàm bậc nhất. Thấp nhất là cửu phẩm — phẩm hàm bậc chín. Trong mỗi phẩm lại có hai loại: chính, tòng.
Đề 2:	Kể lại câu chuyện Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca bằng lời của cậu
bé An-đrây-ca.
Bài tham khảo
Ông tôi đã yên nghỉ lâu rồi nhưng tôi thì cứ nhớ mãi, nhớ về hình ảnh của ông từ những ngày nào. Và có lẽ, nhớ nhất trong tôi là những ngày cuối đời của ông, ngày ấy đã để lại trong lòng tôi một nỗi dằn vặt ray rứt không nguôi.
Hồi ấy, tôi sông với mẹ và ông. Năm tôi lên chín thì ông tôi đã chín mươi sáu tuổi.
Một buổi chiều nọ, ông tôi rất yếu. Ông nói với mẹ tôi:
Bó' khó thở lắm!
Nghe ông nói vậy, mẹ sai tôi đi mua thuốc, còn mẹ ở nhà canh chừng ông. Tôi vội chạy đi ngay nhưng dọc đường gặp mấy đứa bạn ở xóm chơi đá bóng rủ tôi nhập cuộc. Tôi thích quá nên quên hẳn lời mẹ dặn. Những pha bóng quyết liệt đã làm tôi không nhớ đến người ông đang bị bệnh. Chơi bóng một lúc, tôi chợt nhớ đến việc đi mua thuôc cho ông nên liền chạy đến cửa hàng mua thuỗc, sau đó tôi chạy một mạch về nhà. Bước vào phòng ông nằm, tôi hoảng hốt thây mẹ khóc nấc lên. Thì ra ông tôi đã tắt thở. Tôi nghẹn ngào nhìn ông rồi òa lên khóc. Tôi kể lại sự vô tâm của mình cho mẹ nghe. Mẹ an ủi tôi:
Không, con không có lỗi, chẳng thuốc nào cứu ông được. Ông đã ngừng thở từ khi con ra khỏi nhà.
Nghe mẹ nói thế nhưng tôi luôn dằn vặt trong lòng. Chỉ vì tôi ham mê bóng đá, mua thuôc về chậm nên ông mất. Cả đêm đó, tôi ngồi khóc rấm
rức dưới gôc cây táo do tay ông vun trồng. Mãi bây giờ, tôi đã lớn khôn và vẫn luôn tự trách mình:
Giá như tôi đừng ham chơi, mua thuốc về kịp thì ông tôi còn sông thêm được ít năm nữa.
Dù dằn vặt và nghiêm khắc với lỗi lầm của bản thân mình thì ông tôi cũng không còn sông nữa. Tôi đã rút ra bài học đầu đời thật cay đắng.
Đề 3:	Kể lại câu chuyện Vua tàu thủy Bạch Thái Bưởi bằng lời của một
chủ tàu người Pháp hoặc người Hoa.
Bài tham khảo
Tôi là một chủ tàu người Pháp và đã từng có mệnh danh là “Vua tàu thủy” nhưng tôi đã nhường mệnh danh ấy cho một bậc “anh hùng kinh tê” cùng thời. Bậc anh hùng đó là Bạch Thái Bưởi — một con người giàu ý chí và nghị lực. Phẩm chất này đã tôn anh lên ngôi vua mà tôi đã ngưỡng mộ - “Vua tàu thủy” Bạch Thái Bưởi.
Anh mồ côi cha từ bé, phải theo mẹ quẩy gánh hàng rong. Nhờ khôi ngô tuân tú nên đã được nhà họ Bạch nhận làm con nuôi và cho ăn học.
Năm 21 tuổi, Bạch Thái Bưởi làm thư kí cho một hãng buôn. Sau một thời gian ngắn, anh đứng ra kinh doanh độc lập. Anh mở tiệm buôn gỗ, buôn ngô, mở tiệm cầm đồ, lập nhà in, khai thác mỏ,... Có lúc anh mất trắng tay, sản nghiệp không còn nhưng anh không nản chí. Anh tiếp tục làm lại, gây dựng lại cơ nghiệp của mình.
Bạch Thái Bưởi mở công ty vận tải đường thủy vào lúc những con tàu của người Hoa đã độc chiếm các đường sông miền Bắc.
Thấy vậy, tôi thầm nghĩ:
Anh ta chỉ sông được non tháng thôi. Khách đâu mà chở?
Nhưng tôi đã nhầm. Bạch Thái Bưởi cho người đến các bến tàu diễn thuyết. Trên mỗi chiếc tàu, anh đều dán dòng chữ “Người ta thì đi tàu ta”. Anh còn treo một cái ông để khách nào đồng tình với anh thì vui lòng bỏ ông tiếp sức cho chủ tàu. Lúc ấy, tôi đã hình dung sự thất bại của mình. Đúng như dự đoán, khách đi tàu tôi mỗi ngày một ít. Lòng yêu nước và tinh thần dân tộc của khách đi tàu đã ủng hộ anh. Khách đi tàu eủa anh mỗi ngày một đông. Tiền đồng, tiền hào, tiền xu của khách đã tiếp sức ủng hộ anh. Còn tôi thì bị thua lỗ. Cuối cùng tôi phải bán tàu lại cho anh ấy. Anh đã phát triển thịnh vượng hơn. Anh có đến ba mươi chiếc tàu lớn nhỏ, mỗi chiếc tàu đều mang những cái tên lịch sử như Lạc Long, Hồng Bàng, Trưng Trắc, Trưng Nhị,... Anh còn mua nhiều xưởng sửa chữa tàu, mỗi xưởng đều có kĩ sư giỏi trông nom.
Với ý chí vươn lên, Bạch Thái Bưởi nhanh chóng trở thành bậc anh hùng kinh tế. Anh như một vị vua trong giới do.anh nhân phục vụ đường biển.
Tôi thật khâm phục ý chí, nghị lực và cách làm việc của anh.
Đề 4:	Kể lại chuyện ông Trạng thả diều theo lời kể của Nguyễn Hiền.
Bài tham khảo
Tôi là Nguyễn Hiền, người làng Dương Miện, tĩnh Hà Nam. Tôi được sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo ở vùng nông thôn, sông vào đời vua Trần Nhân Tông.
Năm lên sáu tuổi, tôi được bô' mẹ cho đi học ông thầy trong làng, tôi thích lắm. Học đến đâu, tôi nhớ làu làu đến đó, chỉ đọc bài qua một lần là thuộc ngay. Tôi không những thích học mà còn rất thích thả diều. Có lần, tôi cùng với những đứa trẻ nghèo đi chăn trâu. Chúng tôi tranh thủ đi thả diều và bị thầy giáo thấy được. Hôm sau, thầy giáo gọi tôi để kiểm tra bài. Tôi đọc một hơi rành rọt hơn hai mươi trang sách. Thầy giáo rất ngạc nhiên. Nhưng vì nghèo quá nên tôi được học chẳng bao lâu thì phải nghỉ học. Tôi nhớ lớp, nhớ thầy, khao khát được đi học như các bạn trạc tuổi tôi. Thế là hàng ngày tôi tự học. Những lúc đi chăn trâu, tranh thủ nấp ngoài cửa lớp nghe thầy giáo giảng bài. Tôi đến, đợi các bạn học bài xong tôi mượn vở về học. Tôi cũng đèn sách như ai, nhưng vở của tôi là lưng trâu hay nền cát. Bút là ngón tay, cành cây hoặc mảnh gạch vỡ. Còn đèn tôi dùng để học bài là vỏ trứng thả đom đóm vào trong. Vừa chăn trâu vừa học, vừa thả diều vừa học, nhưng kiến thức của tôi không thua kém gì các bạn được học hành tử tế. Bận làm, bận học như thế mà cánh diều của tôi vẫn bay cao, tiếng sáo diều vẫn vi vút trên bầu trời rộng và xanh thẳm không cùng.
Năm tôi lên mười ba tuổi, nhà vua mở hội khoa thi để chọn người tài. Tôi đâu ngờ rằng mình cũng được dự thi ở kinh đô. Một hôm, tôi cùng các bạn thả diều ngoài đồng, thầy giáo làng tìm tôi và bảo:
Thầy biết con học giỏi và có chí. Tuy nhà nghèo nhưng con ham học, không nản lòng trước những khó khăn trong cuộc sông. Con hãy tham gia khoa thi ở kinh đô sắp đến. Hãy cô' lên để khẳng định sức mình.
Nghe thầy nói thế, tôi rất vui mừng nhưng vẫn còn do dự.
Như hiểu được tâm trạng của tôi, thầy giáo tiếp:
Thầy hiểu hoàn cảnh của con, thầy sẽ giúp con mọi thứ cần thiết để tham gia cuộc thi này.
Thê' là tôi tạm biệt cha mẹ, thầy giáo và bạn bè để lên kinh đô ứng thí. Tôi đã đỗ Trạng Nguyên và được ghi vào sử sách là “Trạng Nguyên trẻ nhất nước Nam”.
Từ ngày thành công đó, tôi muôn nhắn gửi các bạn một điều:
“Có chí thì nên
Có công mài sắt có ngày nên kim”.
Ý chí và nghị lực sẽ giúp ta thành công trong cuộc sông.