SGK Ngữ Văn 9 - Sự phát triển của từ vựng (tiếp theo)

  • Sự phát triển của từ vựng (tiếp theo) trang 1
  • Sự phát triển của từ vựng (tiếp theo) trang 2
  • Sự phát triển của từ vựng (tiếp theo) trang 3
  • Sự phát triển của từ vựng (tiếp theo) trang 4
Sự PHÁT TRIỂN CỦA TỪ VựNG (tiếp theo)
I - TẠO TỪ NGỮ MỚI
Hãy cho biết trong thời gian gần đây có những từ ngữ nào mới được cấu tạo trên cơ sở các từ sau : điện thoại, kỉnh tê', di động, SỞ hữu, tri thức, đặc khu, trí tuệ. Giải thích nghĩa của những từ ngữ mới câ'u tạo đó.
Mẫu : điện thoại di động, SỞ hữu trí tuệ.
Trong tiếng Việt có những từ được cấu tạo theo mô hình X + tặc (như không tặc, hải tặc,..}. Hãy tìm những từ ngữ mới xuất hiện cấu tạo theo mô hình đó.
Ghi nhớ
Tạo từ ngữ mới để lầm cho vốn từ ngữ tăng lên cũng là một cách để phát triển từ vựng tiêng Việt.
- MƯỢN TỪ NGỮ CỦA TIẾNG NƯỚC NGOÀI
Hãy tìm những từ Hán Việt trong hai đoạn trích sau đây :
Thanh minh trong tỉêí tháng ba,
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức yêh anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
(Nguyễn Du, Trưyện Kiềứ)
Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiêng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nê'u đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin lầm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chổng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xỉn lầm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
(Nguyễn Dữ, Chuyện người con gái Nam Xương)
Tiếng Việt dùng những từ nào đê’ chỉ những khái niệm sau :
Bệnh mất khả năng miễn dịch, gây tử vong;
Nghiên cứu một cách có hệ thông những điều kiện đê’ tiêu thụ hàng hoá, (chẳng hạn nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu của khách hàng...).
Những từ này có nguồn gôc từ đâu ?
Ghi nhớ
Mượn từ ngữ của tiếng nước ngoài cũng là một cách để phát triêh từ vựng tiêng Việt. Bộ phận từ mượn quan trọng nhâ't trong tiếng Việt là từ mượn tỉêhgHấn.
- LUYỆN TẬP
Tìm hai mô hình có khả năng tạo ra những từ ngữ mới như kiểu X + tặc ở trên (mục 1.2).
Tìm năm từ ngữ mới được dùng phổ biến gần đây và giải thích nghĩa của những từ ngữ đó.
Dựa vào những kiến thức đã học ở lớp 6 (bài Từmượn, trong Ngữ văn 6, tập một, tr. 24) và lớp 7 (bài Từ Hấn Việt, trong Ngữ văn 7, tập một, tr. 69 và 81), hãy chỉ rõ trong những từ sau đây, từ nào mượn của tiếng Hán, từ nào mượn của các ngôn ngữ châu Âu : mãng xà, xà phòng, biên phòng, ô tô, tham ô, tô thuê' ra-đi-ô, ô xi, cà phê, phê bình, phê phán, ca nô, ca sĩ, nô lệ.
Nêu vắn tắt những cách phát triển từ vựng và thảo luận vấn đề : Từ vựng của một ngôn ngữ có thê’ không thay đổi được không ?
ĐỌC THÊM
Tiếng ta phải có những đổi mới, đó là điều tất yếu, vì đời sôhg tư tưởng và tình cảm ngày nay, nhất là trong lỉnh vực khoa học và kĩ thuật có nhiều cái mới. Tiếng ta phải phát triển. Tâ't cả vâh đề là lầm sao đảm bảo sự phát trỉêh này diễn ra một cách vững chắc trên cơ sở vôh cũ của tiêhg ta, làm cho tỉêhg ta ngày thêm giàu, nhưng vẫn giữ được phong cách, bản sắc, tỉnh hoa của nó. Như vậy tức là giữ gìn sự trong sáng của tiêhg ta.
(Theo Phạm Văn Đồng, Giữ gùi sự trong sáng của tiêng Việt,
trong sách cùng tên, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1977)
Khỉ bàn về việc mượn tỉêhg nước ngoài, đặc biệt là tiêhg Hán, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói rõ phạm vi những từ cần mượn, về điểm này chúng tôi thâỳ trong những lời dạy của Người có hai ý quan trọng:
Một là, ta chỉ mượn tiêhg nước ngoài khi "chữ ta không có sẵn". Như thế tức là khỉ có những sự vật, những khái niệm mới cần được gọi tên, được biểu đạt, nhưng trong tiêhg Việt còn thiêu những từ cần thiết và thích hợp, thì chúng ta phải mượn tiếng nước ngoài, như một số thuật ngữ khoa học chẳng hạn. Trong bài nói chuyện với các văn nghệ sĩnăm 1960, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: "Về các môn khoa học khác: khoa học, kĩ thuật, kinh tếhọc, triết học, thì tiêhg ta còn nghèo, phải dùng chữ nước ngoài, nhưng chỉ nên dùng danh từ gì thật cần thiết và tiếng ta không có".
Hai là, ta chỉmượn những từ "khó dịch đứng" sang tiêng ta hoặc trong tiếng ta "không có chữ gì dịch ". Chúng tôi hiểu những từ "khó dịch đứng" là những từ khi chuyển sang tiếng Việt không giữ được nguyên vẹn ý nghĩa hoặc màu sắc tu từ của chúng.
Căn cứ vào những ý kiên này, chứng tồi cho rằng chúng ta cần mượn và dùng những nhóm từ gốc Hán sau đây:
Những từ gốc Hán được mượn bằng cách dịch âm va' giữ nguyên ý nghĩa khi trong tiếng Việt chưa có các từ tương ứnư với chúng. Ví dụ : độc lập, du kích, đặc biệt, v.v...
Những từ gốc Hán có quan hệ đồng nghĩa với từ Việt, nhưng khác với từ Việt về mầu sắc biểu cảm hoặc phong cách. Chúng không thể hoàn toàn thay thế nhau được. Ví dụ: chết - hi sinh, tạ thế; đẻ - sinh ; v.v...
Những từ gốc Hán có quan hệ đồng nghĩa với từ Việt, nhưng khác với từ Việt về mầu sắc ý nghĩa và cách dùng. Chứng không thể thay thếnhau trong mọi trường hợp. Ví dụ: phl - bay, niệm - đọc, V. V...
Việc mượn và dùng những từ gốc Hán thuộc ba nhóm trên đây đúng mức, đúng chỗ là cần thiết, vì nó làm cho tiêng nói của ta giàu có, tế nhị chứ không đơn điệu, nghèo nàn. Cho nên, chỉ mượn "những chữ ta không có sẵn và khó dịch đứng" là một nguyên tắc chính trong khỉ vay mượn tiêng nước ngoài.
(Theo Hoàng Văn Hành, Tìm hiểu những ý kỉêh
của Hồ Chủ tịch về việc mượn và dùng từ gốc Hán,
trong Giữ gìn sự trong sáng của tiẽhg Việt, Sđd)