Giải Lịch Sử 9 Bài 29: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973)

  • Bài 29: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 1
  • Bài 29: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 2
  • Bài 29: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 3
  • Bài 29: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 4
  • Bài 29: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 5
  • Bài 29: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 6
  • Bài 29: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 7
  • Bài 29: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 8
  • Bài 29: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 9
  • Bài 29: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 10
  • Bài 29: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 11
  • Bài 29: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 12
  • Bài 29: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 13
  • Bài 29: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 14
  • Bài 29: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 15
  • Bài 29: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 16
BÀI
29
CẢ NƯỚC TRỰC TIẾP CHIẾN ĐẤU chống mĩ
CỨU NƯỚC (1965- 1973)
I. CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIÊN lược “CHIẾN tranh cục BỘ” CỦA MĨ (1965 - 1968)
1. Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ (1965 - 1968)
Câu hỏi: Vì sao Mĩ chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam?
Trả lời câu hỏi
Mĩ chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” là vì:
Với chiến thắng Bình Giã (Bà Rịa) trong Đông - Xuân 1964 - 1965, quân dân miền Nam đã làm phá sản về cơ bản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ.
Để cứu vãn nguy cơ bị phá sản hoàn toàn của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mĩ liền chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và mở rộng chiến tranh bắn phá miền Bắc.
Câu hỏi: “Chiến tranh cục bộ” là loại hình chiến tranh như thê' nào?
Trả lời câu hỏi
“Chiến tranh cục bộ” là một loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mĩ, được tiến hành bằng lực lượng quân đội Mĩ, quân đồng minh và quân đội Sài Gòn, trong đó quân Mĩ giữ vai trò quan trọng.
Câu hỏi: Mĩ thực hiện chiên lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam như thế nào?
Trả lời câu hỏi
Dựa vào ưu thế quân sự, với quân số đông, vũ khí hiện đại, hỏa lực mạnh, Mĩ vừa mới vào miền Nam đã cho quân mở ngay cuộc hành quân “tìm diệt” vào căn cứ của quân giải phóng ồ Vạn Tường (Quảng Ngãi).
Tiếp đó, Mĩ mở liền hai cuộc phản công chiến lược mùa khô: Đông - Xuân 1965 - 1966 và 1966 - 1967 bằng hàng loạt cuộc hành quân “ tìm diệt” và “bình định”.
Câu hỏi: Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ ở miền Nam có điểm gì giống và khác nhau trong hai thời kì chiến tranh ở miền Nam?
Trả lời câu hỏi
Giống nhau:
Hai chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và “Chiến tranh đặc biệt” đều là chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mĩ, nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mĩ.
Cả hai chiến lược đều thực hiện âm mưu chống lại cách mạng và nhân dân miền Nam.
Khác nhau:
+ về quy mô chiến tranh:
Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mĩ thực hiện ở miền Nam.
Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ thực hiện ở miền Nam và mở rộng chiến tranh không quân và hải quân bắn phá miền Bắc.
Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” được tiến hành bằng quân đội tay sai, do “Cố vấn” Mĩ chỉ huy, dựa vào vũ khí, trang bị kĩ thuật, phương tiện chiến tranh của Mĩ.
Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” được tiến hành bằng lực lượng quân đội Mĩ, do quân đồng minh và quân đội Sài Gòn, trong đó Mĩ giữ vai trò quan trọng, không ngừng tăng lên về số lượng và trang bị.
+ Lực lượng tham chiến: trong chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, số’ quân tham chiến đông hơn trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”.
+ Tính chất ác liệt: chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ác liệt hơn thể hiện ở mục tiêu vừa nhằm tiêu diệt quân chủ lực và bình định miền Nam, phá hoại miền Bắc, sô’ quân tham chiến đông, vũ khí hiện đại, hỏa lực mạnh cả trên bộ, trên không, trên biển.
Chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ Câu hỏi: Sự kiện nào mở đầu cho phong trào chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục hộ” của Mĩ ở miền Nam'?
Trả lởi câu hỏi
Sự kiện mở đầu cho phong trào chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ ở miền Nam là “Chiến thắng Vạn Tường” ngày 18-8-1965
của quân và dân tỉnh Quảng Ngãi.	
Câu hỏi: Trình bày diễn biến, kết quả và ý nghĩa của trận Vạn
	Tường (Quảng Ngãi).	
Trả lời câu hỏi
Diễn biến và kết quả
Mờ sáng ngày 18-8-1965, Mĩ huy động 9.000 quân, 105 xe tăng và xe bọc thép, 100 máy bay lên thẳng và 70 máy bay phản lực chiến đâ’u, 6 tàu chiến, mở cuộc hành quân vào thôn Vạn Tường (Quảng Ngãi).
Sau một ngày chiến đấu, một trung đoàn chủ lực của ta cùng với quân du kích và nhân dân địa phương đã đẩy lùi được cuộc hành quân của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 900 tên địch, bắn cháy 22 xe tăng và xe bọc thép, hạ 13 máy bay.
* ý nghĩa
Vạn Tường được coi là “Ap Bắc” đối với quân Mĩ, mở đầu cao trào “Tìm Mĩ mà đánh, lùng ngụy mà diệt” trên khắp miền Nam. Nó chứng minh khả năng đánh thắng quân Mĩ của nhân dân ta trong cuộc chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ. Một phong trào thi đua trở thành “Dũng sĩ diệt Mĩ” và “Đơn vị anh hùng diệt Mĩ” diễn ra sôi nổi khắp miền Nam.
Câu hỏi: Quân và dân miền Nam đã đảnh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 của Mĩ như thế nào?
Trả lời câu hỏi
Trong mùa khô thứ nhất (đông - xuân 1965 - 1966), với 720 000 quân (trong đó có 220 000 quân Mĩ), địch mở đợt phản công với 5 cuộc hành quân “tìm diệt” lớn nhằm vào hai hướng chiến lược chính ở Đông Nam Bộ và Khu V, với mục tiêu đánh bại chủ lực quân giải phóng.
Trong mùa khô thứ hai (đông - xuân 1966 - 1967), với lực lượng được tăng lên hơn 980 000 quân (riêng quân Mĩ và đồng minh chiếm hơn 440 000), Mĩ mở đợt phản công với ba cuộc hành quân lớn “tìm diệt” và “bình định”, lớn nhất là cuộc hành quân Gian-Xơn Xi-ti đánh vào căn cứ Dương Minh Châu (Bắc Tây Ninh) nhằm tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan đầu não của ta.
Kết quả sau hai mùa khô, trên toàn miền Nam, quân dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 240 000 tên địch, bắn rơi và phá hủy hơn 2 700 máy bay, hơn 2 200 xe tăng và xe bọc thép, hơn 3 400 ô tô.
Câu hỏi: Hai cuộc phản công mùa khô (1965-1966) và (1966-1967) thắng lợi có ý nghĩa gì?
Trả lời câu hỏi
Chiến thắng trong hai mùa khô (1965-1966) và (1966-1967) của quân dân miền Nam làm cho gọng kìm “tìm diệt” của địch bị bẻ gãy hoàn toàn, buộc địch phải lùi vào thế phòng ngự.
Chiêh thắng trong hai mùa khô đã góp phần làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mĩ, là điều kiện để quân dân miền Nam tiến lên tổng công kích, tổng nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.
Câu hỏi: Trình bày những thắng lợi trên mặt trận chống phá bình định và đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam trong những năm chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ”? Trả lời câu hỏi
Trên mặt trận chông phá bình định, ở hầu khắp các vùng nông thôn, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, quần chúng đã đứng lên đấu tranh chống ách kìm kẹp của địch, phá từng mảng “ấp chiến lược “.
Trong hầu khắp các thành thị, giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động khác, học sinh, sinh viên, phật tử, binh sĩ Sài Gòn... đấu tranh đòi Mĩ rút về nước, đòi tự do dân chủ.
Vùng giải phóng được mở rộng, uy tín của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam được nâng cao trên trường quốc tế.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968)
(Học sinh tham khảo)
Câu hỏi: Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở miền Nam đã diễn ra trong hoàn cảnh như thế nào? Diễn biến, kết quả và ỷ nghĩa.
Trả lời câu hỏi
Bước vào mùa xuân năm 1968, so sánh lực lượng giữa ta và địch ở miền Nam đã thay đổi có lợi cho ta sau hai mùa khô (1965 - 1966) và (1966 - 1967).
Mâu thuẫn ở Mĩ trong bầu cử Tổng thống năm 1968 sâu sắc.
Trong tình hình trên, ta chủ trương mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, trọng tâm là các đô thị nhằm mục đích tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân Mĩ, quân đồng minh, đánh đòn mạnh vào chính quyền và quân đội Sài Gòn, giành chính quyền về tay nhân dân, buộc Mĩ phải đàm phán, rút quân về nước.
Câu hỏi: Tóm tắt diễn biến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968).
Trả lời câu hỏi
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy được mở đầu bằng cuộc tập kích chiến lược của quân chủ lực vào hầu khắp các đô thị trong đêm 30 - rạng sáng 31 -1 -1968 (đêm giao thừa Tết Mậu Thân).
Quân dân ta ở miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 37 trong tổng số 44 tỉnh, 4 trong sô' 6 đô thị lớn, 64 trong sô' 242 quận lị, ở hầu khắp các “ấp chiến lược”, các vùng nông thôn.
Tại Sài Gòn, quân giải phóng tiến công đến tận các vị trí đầu não của địch như tòa Đại sứ Mĩ, Dinh Độc lập, Bộ Tổng tham mưư quân đội Sài Gòn, Đài phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất...
Trong đợt 1, quân dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 147 000 tên địch, trong đó có 43 000 lính Mĩ, phá hủy một khối lượng lớn vật chất và phương tiện chiến tranh của chúng.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân đã đánh đòn bất ngờ, làm cho địch choáng váng. Nhưng do lực lượng địch còn đông, cơ sở ở thành thị mạnh nên trong đợt 2 và 3, lực lượng của ta gặp không ít khó khăn và tổn thất.
Câu hỏi: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) có ý nghĩa như thế nào?
Trả lời câu hỏi
Mặc dù có những tổn thất do thiếu sót trong chỉ đạo, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy có ý nghĩa to lớn
Làm lung lay ý chí xâm lược của quân Mĩ, buộc Mĩ phải tuyên bố
“Phi Mĩ hóa” chiến tranh xâm lược (tức thừa nhận thất bại của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”).
Buộc Mĩ chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đàm phán với ta ở Pa-ri để bàn về chấm dứt chiến tranh.
Câu hỏi: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thăn 1968 có hạn chê gì?
Trả lời câu hỏi
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) còn có hạn chế do ta chủ quan, đánh giá cao lực lượng mình, đánh giá thấp lực lượng địch, do muốn giành thắng lợi lớn một cách nhanh chóng, kết thúc chiến tranh nhanh, chỉ đạo lại không chủ động, không điều chỉnh kế hoạch rút khỏi thành phố về giữ vững vùng nông thôn của ta để bảo toàn, củng cố lực lượng cách mạng bị tổn thất.
II. MIỀN BẮC VỪA CHIẾN ĐẤU CHốNG CHEẾN tranh phá hoại
LẦN THỨ NHẤT CỦA MĨ, VỪA SẢN xuất (1965 - 1968)
1. Mĩ tiến hành chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền Bắc
Câu hỏi: Vì sao Mĩ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất?
Trả lời câu hỏi
Nguyên nhân Mĩ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc:
Do thất bại trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” đồng thời để hỗ
trợ cho chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, Mĩ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc.
Câu hỏi: Mĩ đã lấy cớ gì để tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc?
Trả lời câu hỏi
Để mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, chính quyền Giôn-xơn tạo ra “sự kiện vịnh Bắc Bộ”. Trưa ngày 2-8-1964, Mĩ cho hải quân xâm phạm vùng biển Vịnh Bắc Bộ liền bị hải quân Việt Nam đánh trả. Đêm ngày 4-8-1964, chính quyền Giôn-xơn dựng chuyện tàu chiến Mĩ bị hải quân Việt Nam tiến công lần thứ hai ở ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ thuộc hải quân quốc tế và lấy cớ đó, Mĩ cho máy bay bắn phá một số’ nơi dọc bờ biển miền Bắc.
Việc ném bom bắn phá nhiều nơi trong đất liền miền Bắc ngày 7-2- 1965 đã mở đầu chính thức cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất và đây cũng là cớ “trả đũa” việc quân giải phóng miền Nam đánh vào trại lính Mĩ ở Plây Cu.
Câu hỏi: Vì sao chính quyền Giôn-xơn phải cho dựng lên “sự kiện
vịnh Bắc Bộ” để lấy cớ đánh phả miền Bắc?
Trả lời câu hỏi
Để tránh dư luận trong nước và quốc tế lên tiếng phản đốì.
Để tranh thủ nghị quyết của Quốc hội cho phép Tổng thống mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc.
Câu hỏi: Mục đích của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của Mĩ là gì?
Trả lời câu hỏi
Mục đích của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của Mĩ là đánh phá hậu phương lớn của miền Nam, hỗ trợ cho việc thực hiện những mục tiêu của cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam. Vì vậy, chiến tranh phá hoại miền Bắc là một bộ phận và phụ thuộc vào cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam của Mĩ, lúc này là chiến lược “Chiến tranh cục bộ”.
Câu hỏi: Đế quốc Mĩ đánh phá miền Bắc nước ta như thế nào?
Trả lời câu hỏi
Mĩ huy động một lực lượng lớn không quân và hải quân rất lớn, gồm hàng ngàn máy bay tốì tân thuộc 50 loại khác nhau, kể cả những loại mới nhất như máy bay Fill, B52 và các loại vũ khí hiện đại.
Không quân và hải quân Mĩ tập trung ném bom các mục tiêu quân sự, các đầu mối giao thông, các khu đông dân... Chúng ném bom cả trường học, nhà trẻ, bệnh viện, khu an dưỡng, đền, chùa và nhà thờ.
Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất
Câu hỏi: Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mĩ như thế nào?
Trả lời câu hỏi
Ngay từ đầu Mĩ mở rộng chiến tranh, miền Bắc đã kịp thời chuyển mọi hoạt động sang thời chiến, thực hiện quân sự hóa toàn dân, đào đắp công sự chiến đấu, hầm hào phòng tránh; triệt để sơ tán, phân tán những nơi đông dân để tránh thiệt hại về người và của.
Miền Bắc chủ trương đẩy mạnh kinh tế địa phương, chú trọng phát triển nông nghiệp để hạn chế được sự tàn phá của chiến tranh, tăng khả năng đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến đấu tại chỗ và đời sông của nhân dân từng địa phương.
Trên toàn miền Bắc dấy lên phong trào thi đua chống Mĩ, cứu nước sôi nổi.
Câu hỏi: Miền Bắc đạt được những thành tích gì trong việc thực hiện nhiệm vụ vừa chiến đấu vừa sản xuất?
Trả lời câu hỏi
Trong hơn bôn nãm (từ ngày 5- 8 -1964 đến ngày 1 -11 -1968), miền Bắc bắn rơi, phá hủy 3 243 máy bay, trong đó có 6 máy bay B52, 3 máy bay Fill; loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn phi công; bắn cháy và bắn chìm 143 tàu chiến.
Ngày 1-11-1968, Mĩ tuyên bố ngừng chiến tranh phá hoại miền Bắc.
Câu hỏi: Trong việc thực hiện nhiệm vụ vừa chiến đấu vừa sản xuất, miền Bắc đạt được những thành tích gì trên mặt trận sản xuất?
Trả lời câu hỏi
Trên mặt trận sản xuất, miền Bắc cũng lập được những thành tích quan trọng:
Về nông nghiệp: diện tích canh tác được mở rộng, năng suất lao động không ngừng tăng lên, ngày càng có nhiều hợp tác xã, nhiều địa phương đạt “Ba mục tiêu” (5 tấn thóc, 2 đầu lợn, 1 lao động trên 1 héc ta diện tích gieo trồng trong 1 năm).
Về công nghiệp: năng lực sản xuất ở một sô' ngành được giữ vững. Các cơ sở công nghiệp lớn đã kịp thời sơ tán, phân tán, sớm đi vào sản xuất, đáp ứng nhu cầu thiết yếu nhất cho chiến đấu và đời sống. Công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng phát triển. Mỗi tỉnh trở thành một đơn vị kinh tế tương đối hoàn chỉnh.
Giao thông vận tải là một trong những trọng điểm bắn phá ác liệt của địch, nhưng ta vẫn bảo đảm giao thông thông suốt, đáp ứng được yêu cầu phục vụ chiến đấu, sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.
Miền Bắc thực hiện nghĩa vụ hậu phương lớn Câu hỏi: Miền Bắc thực hiện nghĩa vụ hậu phương ra sao?
Trả lời câu hỏi
Là hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chông Mĩ, cứu nước, miền Bắc luôn hướng về miền Nam. Vì miền Nam ruột thịt, miền Bắc phấn đấu “Mỗi người làm việc bằng hai”. Vì tiền tuyến kêu gọi, hậu phương sẵn sàng đáp lại “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”.
Câu hỏi: Hậu phương miền Bắc đã chỉ viện những gì cho tiền tuyến miền Nam trong những năm 1965 - 1968?
Trả lời câu hỏi
Qua 4 năm (1965 -1968), miền Bắc đã đưa hơn 300 000 cán bộ, bộ đội vào Nam tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, xây dựng kinh tế, văn hóa tại các vùng giải phóng.
Gửi vào miền Nam hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, lương thực, thực phẩm, thuốc men và nhiều vật dụng khác.
Tính chung trong 4 năm sức người, sức của từ miền Bắc chuyển vào miền Nam sau bốn năm đã tăng gấp 10 lần so với thời kì trước.
Câu hỏi: Nguồn nhân lực, vật lực của miền Bắc chỉ viện cho miền Nam có ý nghĩa gì?
Trả lời câu hỏi
Nguồn nhân lực, vật lực của miền Bắc chi viện cho miền Nam cùng với thắng lợi của quân dân miền Bắc trong sản xuất và chiến đấu đã góp phần quyết định vào thắng lợi trong chiến đấu chông chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mĩ - Ngụy ở miền Nam.
CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC “VIỆT NAM HÓA
CHIẾN TRANH” VÀ “ĐÔNG DƯƠNG HÓA CHIEN TRANH”
CỦA MĨ (1969 - 1973)
1. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” của Mĩ
Câu hỏi: Vì sao Mĩ chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh”?
Trả lời câu hỏi
Mĩ chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông
Dương hóa chiến tranh” là:
Do chiến lược “Chiến tranh cục bộ” bị thất bại, Mĩ chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam và mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương, thực hiện chiến lược “Đông Dương hóa chiến tranh”. Câu hỏi: “Việt Nam hóa chiến tranh” là chiến lược như thê nào? Trả lời câu hỏi
Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” là một loại hình chiến tranh thực dân mới của Mĩ, được tiến hành bằng lực lượng quân đội Sài Gòn là chủ yếu, có sự phôi hợp về hỏa lực và không quân Mĩ và vẫn do Mĩ chỉ huy bằng hệ thông cố vấn quân sự.
Câu hỏi: Ảm mưu của Mĩ trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” là gì?
Trả lời câu hỏi
Âm mưu cơ bản của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” là dùng người Việt đánh người Việt.
Câu hỏi: Mĩ thực hiện thủ đoạn gì trong việc tiến hành chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” (1969 - 1973)?
Trả lời câu hỏi
Quân đội Sài Gòn còn được Mĩ sử dụng như lực lượng xung kích ở
Đông Dương trong các cuộc hành quân mở rộng xâm lược Cam-pu-chia (1970), tăng cường chiến tranh ở Lào (1971), thực hiện âm mưu “Dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”.
Mở rộng chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền Bắc.
Đẩy mạnh hoạt động ngoại giao chia rẽ các lực lượng cách mạng, cô lập cách mạng Việt Nam với cách mạng các nước trên thế giới.
Câu hỏi: So sánh điểm giống và khác nhau giữa hai chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965 -1968) và “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 - 1973) của Mĩ.
Trả lời câu hỏi
* Giống nhau
Đều là chiến tranh xâm lược thực dân mới, nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mĩ.
Đều tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc.
* Khác nhau
Về lực lượng tham gia chiến tranh: “Chiến tranh cục bộ” được tiến hành bằng quân Mĩ, quân đồng minh và quân đội Sài Gòn ở miền Nam. “Việt Nam hóa chiến tranh” được tiến hành bằng quân đội tay sai ở miền Nam là chủ yếu, quân Mĩ phôi hợp bằng hỏa lực và không quân.
Về quy mô chiến tranh: “Chiến tranh cục bộ” được tiến hành ở miền Nam và mở rộng ra cả miền Bắc bằng chiến tranh phá hoại, “Việt Nam hóa chiến tranh” được tiến hành ở miền Nam và mở rộng ra cả miền Bắc bằng chiến tranh phá hoại, đồng thời còn tiến hành xâm lược Cam-pu-chia và Lào, mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương.
Về vai trò của Mĩ: trong chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, Mĩ trực tiếp chiến đấu, vừa làm “cố vấn” chỉ huy. Trong chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, Mĩ vừa phôi hợp chiến đấu, vừa làm “cố' vấn” chỉ huy.
Chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” của Mĩ
Câu hỏi: Nhân dân ba nước 'Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia đã giành được những thắng lợi chung nào trên các mặt trận quân sự và chính trị trong chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 - 1973)?
Trả lời câu hỏi
Trong hai năm 1970 - 1971, nhân dân ta cùng với nhân dân hai nước
Cam-pu-chia và Lào đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trên mặt trận quân sự và chính trị.
Trên mặt trận chính trị
Trong hai ngày 24 và 25-4-1970, Hội nghị cấp cao ba nước Việt Nam -
Lào - Cam-pu-chia họp để biểu thị quyết tâm của nhân dân ba nước đoàn kết chiến đấu, chống đế quốc Mĩ mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương.
Trên mặt trận quân sự
Từ ngày 30- 4 đến ngày 30-6-1970, quân đội Việt Nam có sự phối hợp của quân dân Cam-pu-chia, đã đập tan cuộc hành quân xâm lược Cam-pu-chia của 10 vạn quân Mĩ và quân đội Sài Gòn, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn với 4,5 triệu dân.
Từ ngày 12-2 đến ngày 23-3-1971, quân đội Việt Nam có sự phôi hợp của quân dân Lào đã đập tan cuộc hành quân mang tên “Lam Sơn - 719" nhằm chiếm giữ Đường 9 - Nam Lào của 4,5 vạn quân Mĩ và quân đội Sài Gòn, quét hết quân Mĩ - quân đội Sài Gòn khỏi Đường 9 - Nam Lào, giữ vững hành lang chiến lược của cách mạng Đông Dương.
Câu hỏi: Đế quốc Mĩ dã dùng thủ đoạn gì nhằm phá vỡ liên minh đoàn kết chiến đấu giữa ba dân tộc ’Việt Nam - Lào - Cam-pu-chỉa từ năm 1969 đến năm 1973? Kết quả ra sao?
Trả lời câu hỏi
Thủ đoạn của Mĩ nhằm phá vỡ liên minh đoàn kết chiến đấu giữa ba dân tộc ở Đồng Dương: sử dụng quân đội Sài Gòn như lực lượng xung kích ở Đông Dương, mở rộng xâm lược Cam-pu-chia, tăng cường chiến tranh ở Lào, thực hiện âm mưu “dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”
Kết quả: Mĩ đã thất bại trước tinh thần đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương.
Câu hỏi: Phong trào đấu tranh chính trị và chống “bình định” của nhân dân miền Nam trong chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” như thế nào?
Trả lời câu hỏi
ở khắp các thành thị, phong trào của các tầng lớp nhân dân diễn ra liên tục. Đặc biệt ở Huế, Đà Nẵng,. Sài Gòn, phong trào học sinh, sinh viên rầm rộ đã thu hút đông đảo giới trẻ tham gia.
Tại các vùng nông thôn, đồng bằng, rừng núi, ven thị đều có phong trào của quần chúng nổi dậy chống “bình định”, phá “ấp chiến lược” của địch.
Cuộc tỉến công chiến lược năm 1972
Câu hỏi: Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 diễn ra trong bối cảnh lịch sử nào?
Trả lời câu hỏi
Sau ba năm 1969, 1970, 1971 quân dân ta giành được một loạt thắng lợi trên các mặt trận quân sự chính trị, ngoại giao.
Năm 1972 là năm bầu cử Tổng Thống ở Mĩ, là năm nảy sinh nhiều mâu thuẫn qua cuộc tranh cử vào Nhà Trắng mà ta có thể tận dụng thời cơ.
Lợi dụng địch chủ quan sơ hở do phán đoán sai thời gian, quy mô và hướng tấn công của ta trong năm 1972, quân ta bắt đầu tiến công chiến lược theo đúng kế hoạch của Quân ủy trung ương đề ra.
Câu hỏi: Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 đã diễn ra như thê nào? Kết quả?
Trả lời câu hỏi
Từ ngày 30-3-1972, quân ta mở cuộc tiến công chiến lược đánh vào Quảng Trị, lấy Quảng Trị làm hướng tiến công chủ yếu, rồi phát triển rộng ra khắp chiến trường miền Nam, kéo dài trong nãm 1972.
- Quân ta tiến công địch với cường độ mạnh, quy mô lớn, trên hầu khắp các địa bàn chiến lược quan trọng. Chỉ trong thời gian ngắn (đến cuối tháng 6 - 1972), quân ta chọc thủng ba phòng tuyến mạnh nhất của địch là Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 20 vạn địch, giải phóng những vùng đất đai rộng lớn và đông dân. Câu hỏi: Ý nghĩa lịch sử của cuộc tiến công chiến lược năm 1972. Trả lời câu hỏi
Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 đã giáng đòn nặng nề vào chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, buộc Mĩ tuyên bố “Mĩ hóa” trở lại chiến tranh xâm lược, thừa nhận sự thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
MIỀN BẮC KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIÊN kinh tế' -
VĂN HÓA, CHIẾN ĐẤU CHÔNG CHIÊN TRANH PHÁ HOẠI
LẦN THỨ HAI CỦA MĨ (1969 - 1973)
1. Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế - văn hóa Câu hỏi: Nhiệm vụ của miền Bắc trong thời kì mới (1969 - 1973) là gì? Trả lời câu hỏi
Nhiệm vụ của miền Bắc trong thời-kì mới từ năm 1969 là:
Khắc phục khó khăn do hậu quả nặng nề chiến tranh phá hoại của Mĩ gây ra.
Thực hiện ba cuộc vận động chính trị lớn: lao động sản xuất, phát huy dân chủ và tăng cường chế độ làm chủ tập thể của quần chúng xã viên ở nông thôn, nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh. Ba cuộc vận động trên nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - văn hóa.
Câu hỏi: Miền Bắc đạt được những thành tựu gì trong việc thực hiện nhiệm vụ khôi phục và phát triển kỉnh tế, văn hóa?
Trả lời câu hỏi
* Thành tựu kinh tế:
Nông nghiệp: Chăn nuôi được đưa lên thành ngành chính. Các hợp tác xã tích cực áp dụng tiến bộ khoa học - kĩ thuật và nhiều biện pháp thâm canh tăng vụ. Nhờ đó, nhiều hợp tác xã đạt được mục tiêu 5 tấn thóc, một số hợp tác xầ đạt từ 6 đến 7 tấn thóc trên 1 héc ta gieo trồng. Sản lượng lương thực năm 1970 tăng hơn 60 vạn tấn so với năm 1968.
Công nghiệp, nhiều cơ sở công nghiệp được khôi phục nhanh chóng. Nhiều công trình được đưa vào hoạt động như Nhà máy thủy điện Thác Bà (Yên Bái). Một sô' ngành công nghiệp quan trọng như điện, than, cơ khí, vật liệu xây dựng... đều có bước phát triển. Giá trị sản lượng công nghiệp năm 1971 tăng 142% so với năm 1968.
Về giao thông vận tải, các tuyến giao thông chiến lược bị phá hoại nặng nề được khẩn trương khôi phục.
Văn hóa, giáo dục, y tế nhanh chóng được khôi phục và phát triển.
Đời sống nhân dân ổn định. Một số khó khăn do sai lầm khuyết điểm của ta trong chỉ đạo, quản lí kinh tế và xã hội bước đầu được khắc phục.
Miền Bắc vừa chiến đâ'u chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuât và làm nghĩa vụ hậu phương
Câu hỏi: ý đồ của Mĩ khi tiến hành cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc lần thứ hai là gì?
Trả lời câu hỏi
Mĩ tiến hành cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc lần thứ hai là nhằm để đối phó với cuộc tiến công chiến lược của quân dân miền Nam và hỗ trợ cho chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đang có nguy cơ phá sản, đồng thời còn nhằm ý đồ tạo thế mạnh cho cuộc đàm phán ở Hội nghị Pa-ri.
Câu hỏi: Nêu điểm giống nhau và khác nhau giữa cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất và cuộc chiến tranh phả hoại lần thứ hai của Mĩ.
Trả lời câu hỏi
Giống nhau:
Trong cả hai lần chiến tranh phá hoại miền Bắc, Mĩ đều có âm mưu cơ bản là sử dụng không quân, hải quân bắn phá miền Bắc để ngăn chặn sự tiếp tế của miền Bắc cho miền Nam, phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Khác nhau:
Chiến tranh phá hoại lần thứ nhất thời gian kéo dài hơn 4 năm (1964-1968). Nhưng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mĩ có thời gian ngắn hơn (chỉ nãm 1972) nhưng quy mô lớn hơn, tốc độ nhanh hơn, cường độ mạnh hơn, hành động táo bạo hơn, sử dụng máy bay hiện đại hơn (Fill, B52).
Câu hỏi: Quân dân miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mĩ như thế nào?
Trả lời câu hỏi
Ngày 16-4-1972, Ních-Xơn (Nixon) tuyên bố chính thức cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc (lần thứ hai).
Nhờ được chuẩn bị trước và với tư thế luôn sẵn sàng chiến đấu, miền
Bấc đã có thể chủ động, kịp thời chông trả địch ngay từ trận đầu.
Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, các hoạt động sản xuất, xây dựng ở miền Bắc vẫn không bị ngừng trệ, giao thông vận tải được bảo đảm thông suốt, các hoạt động khác như vãn hóa, giáo dục, y tế được duy trì và phát triển.
Câu hỏi: Quân dân miền Bắc đã giành những thắng lợi gì trong trận chiến đấu chống cuộc tập kích không quân bằng máy bay B52 cuối năm 1972?
Trả lờỉ câu hỏi
Ngày 14-12-1972, để hỗ trợ cho mưư đồ chính trị - ngoại giao mới,
Ních-xơn phê chuẩn kế hoạch mở cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng trong 12 ngày đêm liên tục, bắt đầu từ tối ngày 18 đến hết ngày 29-12-1972, nhằm giành một thắng lợi quân sự quyết định, buộc ta kí một hiệp định có lợi cho Mĩ.
Quân dân miền Bắc đã đánh trả không quân Mĩ những đòn đích đáng, bắn rơi 81 máy bay (trong đó có 34 máy bay B52 và 5 máy bay Fill), bắt sống 43 phi công Mĩ, đập tan cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 của chúng. Thắng lợi này được coi như trận “Điện Biên Phủ trên không”.
Câu hỏi: Trận “Điện Biên Phủ trên không” của quân dân ta ở miền Bắc có ý nghĩa lịch sử như thế nào?
Trả lởi câu hỏi
Trận “Điện Biên Phủ trên không” là trận thắng quyết định của ta đã buộc Mĩ phải tuyên bô' ngừng hẳn các hoạt động chổng phá miền Bắc (15-1-1973) và kí Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27-1-1973).
HIỆP ĐỊNH PA-RI NĂM 1973 VE CHAM dứt chiến tranh
Ở VIỆT NAM
Câu hỏi: Hiệp định Pa-ri năm 1973 về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam được kí kết trong hoàn cảnh nào?
Trả lởi câu hỏi
* Hoàn cảnh kí kết
Ngày 31-3-1968, sau đòn bất ngờ là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Xuân Mậu Thân của quân dân ta, Giôn-xơn tuyên bô' ngừng ném bom phá hoại miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và bắt đầu nói đến thương lượng với Việt Nam.
Ngày 13-5-1968, cuộc đàm phán chính thức diễn ra tại Pa-ri giữa hai bên là đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đại diện Chính phủ Hoa Kì, và từ ngày 25-1-1969 giữa bôn bên là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam), Hoa Kì và Việt Nam Cộng hòa (chính quyền Sài Gòn).
Trong các phiên họp tại Pa-ri, lập trường của phía Việt Nam là đòi quân Mĩ và quân đồng minh của Mĩ rút hết khỏi miền Nam, đòi họ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam. Lập trường của phía Mĩ thì ngược lạí, nhất là vấn đề rút quân. Mĩ đòi quân đội miền Bắc cũng phải rút khỏi miền Nam.
Tháng 10-1972, ta chủ động đưa ra bản dự thảo Hiệp định nhưng Mĩ từ chối. Mĩ mở cuộc tập kích bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng trong 12 ngày đêm cuối năm 1972 với ý đồ buộc phía Việt Nam kí dự thảo Hiệp định Pa-ri do Mĩ đưa ra nhưng Mĩ đã thất bại.
Quân dân ta đã đập tan cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 của Mĩ, làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, buộc Mĩ, vào ngày 27-1-1973, phải kí Hiệp định Pa-ri do Việt Nam đưa ra trước đó. Câu hỏi: Nêu nội dung cơ bản của Hiệp định Pa-rỉ.
Trả lời câu hỏi
Nội dung cơ bản của Hiệp định bao gồm những điều khoản sau:
Hoa Kì và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Hoa Kì rút hết quân đội của mình và quân đồng minh, hủy bỏ các căn cứ quân sự Mĩ, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.
Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do, không có sự can thiệp của nước ngoài.
Các bên thừa nhận thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị.
Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt.
Hòa Kì cam kết góp phần vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương.
Câu hỏi: Nêu ý nghĩa lịch sử của Hiệp định Pa-ri.
Trả lời câu hỏi
- Hiệp định Pa-ri về Việt Nam là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân dân ta ở hai miền đất nước.
- Với Hiệp định Pa-ri, Mĩ phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta, phải rút hết quân về nước. Đó là thắng lợi lịch sử quan trọng, tạo thời cơ thuận lợi để nhân dân ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Câu hỏi: Lập bảng niên đại và sự kiện về thắng lợi chung của nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Cam-pu-chỉa trên các mặt trận quân sự và chính trị từ năm 1969 đến năm 1973.
Trả
lời câu hỏi
Chính trị
Quân sự
Thời gian
Sự kiện
Thời gian
Sự kiện
Ngày 24,
25-4-1970
Hội nghị cấp cao ba nước
Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia
30-4 đến
30-6-1970
Quân đội Việt Nam với quân dân Cam-pu-chia đập tan cuộc hành quân xâm lược Cam-pu-chia của 10 vạn quân Mĩ và quân đội Sài Gòn.
12-2 đến
23-3-1971
Quân đội Việt Nam và quân dân Lào đập tan cuộc hành “Lam Sơn 719” của quân Mĩ và quân đội Sài Gòn.