SGK Lịch Sử 7 - Bài 12 - Đời sống kinh tế, văn hoá

  • Bài 12 - Đời sống kinh tế, văn hoá trang 1
  • Bài 12 - Đời sống kinh tế, văn hoá trang 2
  • Bài 12 - Đời sống kinh tế, văn hoá trang 3
  • Bài 12 - Đời sống kinh tế, văn hoá trang 4
  • Bài 12 - Đời sống kinh tế, văn hoá trang 5
  • Bài 12 - Đời sống kinh tế, văn hoá trang 6
Bải 12
ĐỜI SỐNG KINH TẾ, VĂN HOÁ
I - ĐÒI ỖÓNG KINH TẾ
Sự chuụển biến của nền nông nghiệp
Ruộng đất trong cả nước trên danh nghĩa đều thuộc quyền sở hữu tối cao của nhà vua. Nhưng thực tế, phần lớn ruộng đất lại do nông dân canh tác. Hằng năm, dân làng chia nhau ruộng đất công để cày cấy và nộp thuế cho nhà vua. Các vua nhà Lý thường về các địa phương cày tịch điền.
Năm 1038, mùa xuân, vua (Thái Tông) ngự ra Bố Hải Khẩu (thành phô' Thái Bình ngày nay) cày ruộng tịch điền, sai hữu tỉ dọn cỏ đắp đàn(l). Vua thân tế thần Nông, tế xong tự cầm cày. Các quan tả hữu có người can rằng: "Đó là công việc của nồng phu, bệ hạ cần gì làm thế". Vua đáp: "Trẫm không tự mình cầy thì lấy gì lầm xôi cúng, lâỳ gì cho thiên hạ noi theo".
Hình 22 - Đền Đô - nơi thờ 8 vị vua nhà Lý (Từ Sơn - Bắc Ninh)
- Việc cày ruộng tịch điền của nhà vua có ý nghĩa như thế nào ?
Vua Lý còn lây một sô' đất công làm nơi thờ phụng, tế lễ hoặc phong câ'p cho con cháu, những người có công, làm các đền chùa.
(1) Đàn : tức dàn tế thần Nông, tương huyền là người dạy dân biết trồng trọt.
Nhà Lý cũng khuyến khích việc khai khẩn đất hoang, tiến hành đào kênh mương, khai ngòi, đồng thời cho đắp đê phòng ngập lụt.
Năm 1051, Lý Thái Tông lại cho đào kênh Lãm (dấu tích còn lại ở Yên Mô - Ninh Binh). Ở khu vực gần Thăng Long, nhà Lý cho đắp đê Cơ Xá, khơi sâu rộng thêm các sông Lãnh Kinh (1089) và sông Tô Lịch (1192).
Nhà Lý cũng ban hành lệnh cấm giết hại trâu, bò để bảo vệ sức kéo cho nông nghiệp.
Bâỳ giờ vua mới ra lệnh là kẻ nào ăn trộm trâu, giết trâu, phạt 80 trượng, nhà lắng giềng không cáo giác cũng bị phạt 80 trượng.
Theo sử biên niên của nước ta ghi lại thì nhiều năm mùa màng bội thu như năm 1016 (triều Lý Thái Tổ), năm 1030, 1044 (triều Lý Thái Tông), năm 1131 (triều Lý Thần Tông), năm 1139,1140 (triều Lý Anh Tông)...
- Vì sao nền nông nghiệp thời Lý phát triển ?
Thủ công nghiệp vồ thương nghiệp
Trong dân gian, nghề chăn tằm ươm tơ, dệt lụa, làm đồ gôm, xây dựng đền đài, cung điện, nhà cửa rất phát triển.
Tháng 2 năm 1040, "vua đã dạy cung nữ dệt được gấm vóc. Tháng ấy xuống chiếu phát hết gấm vóc của nước Tống ở trong kho ra đê may áo ban cho các quan, từ ngũ phẩm trỏ lên thì áo bào bằng gấm, từ cửu phẩm trở lên thì áo bào bằng vóc, để tỏ là vua không dùng gấm vóc của nước Tôhg nữa".
(Đại Việt sử kí toàn thư)
Hình 23 - Bát men ngọc thời Lý
Qua việc làm trên của vua Lý, em nghĩ gì vê' hàng tơ lụa của Đại Việt thời đó ? Vì sao nhà Lý lại không dùng gấm vóc của nhà Tống ?
Ngoài ra, nghề làm đồ trang sức bằng vàng, bạc, nghề làm giây, nghề in bản gỗ, đúc đồng, rèn sắt, nhuộm vải, đều được mở rộng. Có những công trình do bàn tay người thợ thủ công Đại Việt tạo dựng nên rất nổi tiếng như chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên (Hà Nội), vạc Phổ Minh (Nam Định) v.v.:.
Bước phát triển mới của thủ cộng nghiệp là gì ?
Việc buôn bán trao đổi trong nước và ngoài nước được mở mang hơn trước. Ở vùng hải đảo và miền biên giới Lý - Tống, chính quyền hai bên cho lập nhiều khu chợ tập trung để nhân dân đến trao đổi.
"KỈ TỊ (1149) mùa xuân, tháng 2, thuyền buôn ba nước Trảo Oa (đảo Gỉa-va - In-đô-nê-xỉ-a), Lộ Lạc (Vương quốc La-vô - Thái Lan), Xiêm La (Thái Lan) vào Hải Đông (Quảng Ninh) xỉn cư trú buôn bán, (nhà Lý) bèn cho lập trang ở nơi hải đảo gọi là Vân Đồn, để mua bấn hàng hoá quý, dâng tiến sản vật địa phương".
"Giáp Thìn, năm 1184, người buôn các nước Xiêm La và Tam Phật Tề (Pa-lem-bang - ở tây In-đô-nê-xi-a) vào trâh Vân Đồn dâng vật báu để xin buôn bán".
(Đại Việt sử kí toàn thư)
Thời đó, Vân Đồn là nơi buôn bán tấp nập, sầm uất, có vị trí tự nhiên rất thuận lợi cho thuyền bè qua lại và trú đỗ, lại nằm trên trục hàng hải từ Trung Quốc xuống các nước vùng Đông Nam Á.
Việc thuyền buôn nhiều nước vào trao đổi với Đại Việt đã phần ánh tình hình thương nghiệp của nước ta hổi đó như thế nào ?
CÂU HỎI
Nhà Lý đã làm gì để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp ?
Trình bày những nét chính của sự phát triển thủ công nghiệp và thương nghiệp nước ta thời Lý.
Nêu mối quan hệ giữa nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp.
Iĩ - ỖINH HOẠT ẴÃ HỘI VÀ VĂN HOÁ
Những thoụ đổi vê' một xã hội
Thời Lý, vua quan là bộ phận chính trong giai cấp thống trị. Một số hoàng tử, công chúa, quan lại được nhà nước phong cấp ruộng đất đã trở thành địa chủ. Một số ít dân thường, do có nhiều ruộng, cũng trở thành địa chủ có thế lực ở địa phương.
Nông dân chiếm đa số trong dân cư. Họ là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội. Các đinh nam được chia ruộng theo tục lệ của làng xã và phải làm nghĩa vụ cho nhà nước. Những nông dân nghèo phải cày ruộng, nộp tô cho địa chủ, có người phải rời bỏ quê hương đi khai hoang, lập nghiệp ở nơi khác.
Ngoài ra, trong xã hội còn có người làm nghề thủ công, buôn bán. Họ sống rải rác ở các làng, rèn nông cụ, sản xuất các đồ dùng cần thiết hàng ngày và trao đối cho nhau. Họ phái nộp thuê và làm nghĩa vụ với nhà vua.
Nô tì vôn là tù binh hoặc bị tội nặng, nợ nần hoặc tự bán thân; họ phải phục vụ trong cung điện hoặc các nhà quan.
- Hãy nêu các tầng lớp cư dân và đời sống của họ trong xã hội thời Lý.
Giáo due và vãn hoá
Năm 1070, Văn Miếu được xây dựng ở Thăng Long đê’ thờ Khổng Tử. Đây cũng là nơi dạy học cho các con vua.
Hình 24 - Tượng Phật A-di-đà (Chùa Phật Tích - Bắc Ninh)
Năm 1075, khoa thi đầu tiên được mở để tuyển chọn quan lại. Năm 1076, mở Quốc tử giám cho con em quý tộc đến học (có thể xem đây là trường đại học đầu tiên của quốc gia Đại Việt). Sau đó, nhà Lý mở rộng cho con em quan lại và những người giỏi trongnước vào đây học tập, tổ chức thêm một số kì thi. Nhà Lý đã quan tầm đến giáo dục, khoa cử song chế độ thi cử chưa có nền nếp, quy củ, khi nào nhà nước có nhu cầu mới mở khoa thi. Văn học chữ Hán bước đầu phát triển.
Hầu hết các vua nhà Lý như Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông đều sùng đạo Phật, sai dựng chùa tháp, tô tượng, đúc chuông, dịch kinh Phật, soạn sách Phật...
Lý Công Uẩn mới lên ngôi đã phát hai vạn quan tiền để thuê thợ xây dựng 8 ngôi chùa ở quê mình, lại phát hàng vạn quan dựng nhiều chùa ở kinh đô, sửa sang chùa quán ở các lộ, cho phép hơn 1000 người ở Thăng Long làm sư.
- Em hãy nêu vị trí của đạo Phật ở thời Lý.
Từ thời Lý, nhân dân Ua thích ca hát, nhảy múa. Hát chèo, múa rối nước đều phát triển. Dàn nhạc có trống, đàn, sáo, nhị. Nhiều trò chơi dân gian như đá cầu, vật, đua thuyền rất được ham chuộng. Mùa xuân, khắp nơi đều mở hội.
Kiến trúc và điêu khắc rất phát triển. Các công trình có quy mô tương đối lớn và mang tính cách độc đáo.
Hình 25 - Chùa Một Cột (Hà Nội)
Trong Hoàng thành có những toà nhà cao 4 tầng. Tháp Báo Thiên ở Thăng Long gồm 12 tầng. Chùa Một Cột được xây dựng trên một cột đá lớn, dựng giữa hồ, tượng trung cho một hông sen nở trên mặt nước.
Trong thời kì này, một số công trình nghệ thuật khác có giá trị cũng được xây dựng. Tháp Chương Sơn (Nam Định), chuông chùa Trùng Quang (Bắc Ninh) nặng gần 3 tấn v.v...
Trình độ điêu khắc tinh vi, thanh thoát được thể hiện trên các tượng Phật, ở các hình trang trí rồng, các bệ đá hình hoa sen. Rồng mình trơn, toàn thân uốn khúc, uyên chuyên như một ngọn lửa là hình tượng nghệ thuật độc đáo, phổ biến ở thời Lý.
Phong cách nghệ thuật đa dạng, độc đáo và linh hoạt của nhân dân ta thời Lý đã đánh dấu sự ra đời của một nền văn hoá riêng biệt của dân tộc - văn hoá Thăng Long.
Hình 26 - Hình rồng thời Lý
CÂU HỎI
Xã hội thời Lý có những thay đổi như thế nào so với thời Đinh - Tiền Lê ?
. Giáo dục, văn hoá thời Lý phát triển ra sao ?
Em có nhận xét gì về nghệ thuật thời Lý ?