SGK Lịch Sử 7 - Bài 16 - Sự suy sụp của nhà Trần cuối thế kỉ XIV

  • Bài 16 - Sự suy sụp của nhà Trần cuối thế kỉ XIV trang 1
  • Bài 16 - Sự suy sụp của nhà Trần cuối thế kỉ XIV trang 2
  • Bài 16 - Sự suy sụp của nhà Trần cuối thế kỉ XIV trang 3
  • Bài 16 - Sự suy sụp của nhà Trần cuối thế kỉ XIV trang 4
  • Bài 16 - Sự suy sụp của nhà Trần cuối thế kỉ XIV trang 5
  • Bài 16 - Sự suy sụp của nhà Trần cuối thế kỉ XIV trang 6
  • Bài 16 - Sự suy sụp của nhà Trần cuối thế kỉ XIV trang 7
Bài 16
Sự SUY SỤP CỦA NHÀ TRẦN CUÔÌ THẾ KỈ XIV
I - TÌNH HÌNH KINH TÍ - ẨÃ HỘI
Tình hình kinh tê'
Từ nửa sau thế kỉ xrv, nhà nước không còn quan tâm đến sản xuất nông nghiệp, không chăm lo tu sửa, bảo vệ đê điều, các công trình thuỷ lợi... nên nhiều năm bị mất mùa, đói kém. Nhiều nông dân phải bán ruộng đất, vợ, con cho các quý tộc, địa chủ giàu có và biến thành nô tì, bị bóc lột nặng nề.
Vào nửa sau thế kỉ XIV, có 9 lần vỡ đê, lụt lớn. Nhiều năm vừa bị hạn vừa bị lụt, có hơn 10 nạn đói lớn.
Nguyễn Phi Khanh đỗ Thái học sinh thời Trần, đã mô tả tình cảnh dân ch úng bấy giờ như sau :
Ruộng lúa ngàn dặm đỏ như cháy Đồng quê than vãn trông vào đâu ?
... Lưới chài quan lại còn vơ vét Máu thịt nhân dân cạn nửa rồi...
Vương hầu, quý tộc, nhà chùa, địa chủ nắm trong tay rất nhiều ruộng đất. Ruộng đất công ở các làng xã bị xâm lân, khẩu phần ruộng đất của nông dân bị thu hẹp, đời sống ngày càng bấp bênh, cực khổ. Thế nhưng triều đình vẫn bắt dân nghèo mỗi năm phải nộp ba quan tiền thuế đinh.
- Tình hình 'kinh tế nước ta ở nửa cuối thế kỉ XIV như thế nào ? Tại sao có tình trạng đó ?
Tình hình XQ hội
Mặc cho đời sông của nhân dân sa sút nghiêm trọng, vua, quan, quý tộc nhà Trần vẫn lao vào cuộc sông ăn chơi sa đoạ.
"Vua buông tuồng ăn chơi vô độ... nghiện rượu, mê đần hát, xa xỉ làm cung điện nguy nga..., lãng phí tiền của, hoang dâm chơi bời : món gì Dụ Tông cũng mắc ! Cơ nghiệp nhà Trần sao khỏi suy được ?".
(Khâm định Việt sử thông giám cương mục)
Quan lại, vương hầu quý tộc nhân đó thả sức ăn chơi xa hoa, bắt quân, dân xâỵ dinh thự, chùa chiền liên miên. Trong triều, nhiều kẻ tham lam, nịnh thần làm rối loạn kỉ cương phép nước, triều chính bị lũng loạn.
Tưnghỉệp(l) Quốc tử giám lầ Chu Văn An đã dâng sớ lên vua đòi chém 7 tên nịnh thần, nhưng Dụ Tông không nghe. Ông đã xứì "treo mũ" từ quan.
Nhà Trần càng suy sụp hơn từ sau khi Trần Dụ Tông chết (1369) và Dương Nhật Lễ lên nắm quyền (1369 - 1370).
Trần Dụ Tông không có con trai, Nhật Lễ là con nuôi của một đại vương nhà Trần được Hoàng thái hậu đưa lên ngôi. Nhật Lễ vôh là con một kép hát họ Dương, nên khi làm vua đã rắp tâm xoá bỏ họ Trần thaỵ bằng họ Dương, bằng cách tìm giết các quý tộc lớp trên của nhà Trần. Một số quý tộc Trần mưu giết Nhật Lễ không thành nên 18 quan lại quý tộc, kể cả tướng quôc nhà Trần, đã bị Nhật Lễ sất hại. Hằng ngày, Nhật Lễ chỉ vui chơi, hoang dâm và rượu chè.
Nhà Trần còn bất lực trong việc đối phó với các cuộc tấn công của Cham-pa và yêu sách ngang ngược của nhà Minh, đời sống nhân dân càng khổ cực.
- Em có nhận xét gì vê' cuộc sống của vua quan nhà Trần nửa cuôỉ thế kỉ XIV?
Bị áp bức bóc lột tàn tệ, nông dân, nô tì mâu thuẫn ngày càng sâu sắc với giai cấp thông trị. BỞi vậy, họ đã vùng dậy đấu tranh mạnh mẽ.
Từ giữa thế kỉ XIV, nông dân, nô tì đã nổi dậy khởi nghĩa.
Cuộc khởi nghĩa của Ngô Bệ ở Hải Dương
Đầu năm 1344, Ngô Bệ hô hào nông dân ở Yên Phụ (Hải Dương) đứng lên khởi nghĩa. Bị quân đội triều đình đàn áp, khởi nghĩa thất bại. Đến năm 1358, Ngô Bệ lại nổi dậy ở Hải Dương, đến đầu năm 1360 thì bị giết.
Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thanh, Nguyễn Kỵ ở Thanh Hoá
Năm 1379, Nguyễn Thanh tụ tập nông dân khởi nghĩa, tự xưng là Linh đức vương, hoạt động ở vùng sông Chu (Thanh Hoá). Nguyễn Kỵ cũng xưng vương, hoạt động ở Nông Công. Cùng năm 1379, Nguyễn Bổ nổi dậy ở Bắc Giang.
(1) Chức quan thứ.hai trong Quốc tử giám.
Cuộc khởi nghĩa của Phạm Sư Ôn ở Quốc Oai - Hà Nội
Đầu năm 1390, nhà sư Phạm Sư Ôn hô hào nông dân nổi dậy ở Quôc Oai. Nghĩa quân hoạt động ở vùng Sơn Tây, lực lượng hùng hậu, đã kéo quân về đánh chiếm kinh thành Thăng Long trong ba ngày. Vua Trần phải bỏ thành chạy lên Bắc Giang. Sau đó, cuộc khởi nghĩa bị triều đình đàn áp.
Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Nhữ Cái ỏ' Son Tây
Năm 1399, Nguyễn Nhữ Cái nổi dậy khởi nghĩa, hoạt động ở vùng Sơn Tây, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang. Đến năm 1400, cuộc khởi nghĩa bị đàn áp.
- Em hãy nêu tên, thời gian, địa bàn hoạt động của các cuộc khởi nghĩa ở nửa cuô'i thê kỉ XIV.
CÂU HỎI
Em hãy trình bày tóm tắt tình hình kinh tế - xã hội nước ta ở nửa sau thế kỉ XIV.
Em có nhận xét gì vể vương triều Trần ở nửa cuối thế kỉ XIV ?
Sự bùng nổ các cuộc khởi nghĩa nông dân, nô tì ở nửa sau thế kỉ XIV nói lên điều gì ? Tại sao ?
II - NHÀ HÒ VÀ CẢI CÁCH CỦA HÒ QUÝ LY
Nhò Hổ thành lộp (1400)
Vào cuối thế kỉ XIV, các cuộc đấu tranh của nông dân đã làm cho nhà Trần suy yếu, làng xã tiêu điều, dân đinh giảm sút. Nhà Trần không còn đủ sức giữ vai trò của mình, nên sự sụp đổ là khó tránh khỏi. Giữa lúc đó, xuất hiện một nhân vật mới là Hồ Quý Ly.
Hồ Quý Ly là cháu bôh đời của Hồ Liêm (Hồ Liêm từ quê Nghệ An ra Thanh Hoá, được một viên quan đại thần họ Lê nhận làm con nuôi). Ông là người có tài năng, lại có hai người cô là phi tần của vua Trần Minh Tông và sinh hạ được ba vị vua cho nhà Trần, nhờ đó ông rất được vua Trần trọng dụng. Hồ Quý Ly đã nắm giữ được chức vụ cao nhất trong triều đình. Sau vụ một số quý tộc nhà Trần mưu giết Hồ Quý Ly không thành (1399), năm 1400, ông phế truất vua Trần và lên làm vua, đổi quốc hiệu là Đại Ngu - nhà Hồ được thành lập.
Nhà Hổ được thành lập trong hoàn cầnh nào ?
Những biện pháp cải cách của Hồ Ọuụ ỊLụO)
Ngay tử khi còn là một đại thần, đặc biệt sau khi lên ngôi vua, Hồ Quý Ly đã thực hiện những cải cách trên nhiều lĩnh vực.
Về chính trị, ông cải tổ hàng ngũ võ quan, thay thế dần các võ quan cao cap do quý tộc tôn thất nhà Trần nắm giữ bằng những người không phải họ Trần nhưng có tài năng và thân cận với mình.
(1) Các cải cách được trình bày theo từng lĩnh vực đê’ dễ theo dõi, bao gồm những cải cách của Hồ Quý Ly cả thời gian trước và sau khi nhà Hồ được thành lập.
Hồ Quý Ly cho đổi tên một số đơn vị hành chính cấp trấn và quy định cụ thể, rõ ràng cách làm việc của bộ máy chính quyền các cấp.
Năm 1397, Hồ Quý Ly đổi trân Thanh Hoá làm trấh Thanh Đô, trấn Quốc Oai làm trấn Quảng Oai, Lạng Sơn phủ làm Lạng Sơn trân v.v... và quy định "Lộ coi phủ, phủ coi châu, châu coi huyện. Phàm những việc hộ tịch, tiền thóc, kiện tụng đều gộp làm một sổ của lộ, đến cuối năm báo lên sảnh đê’kiểm xét. Cho dời kỉnh đô vào An Tôn (thành Tây Đô - thành nhà Hồ, Thanh Hoá)".
(Khâm định Việt sử thông giám cương mục)
Hồ Quý Ly đặt lệ cử các quan ở triều đình về các lộ thăm hỏi đời sống nhân dân và tìm hiểu tình hình làm việc của quan lại để thăng hay giáng chức.
Về kỉnh tế tài chính, Hồ Quý Ly cho phát hành tiền giấy thay thế tiền đồng, ban hành chính sách hạn điền(l), quy định lại biểu thuế đinh, thuế ruộng.
Năm 1396, Hồ Quý Lỵ cho ban hành tiền giấy, gọi là "thông bảo hội sao" gồm 7 loại : 10 dồng, 30 đồng, 1 tiền, 2 tiền, 3 tiền, 5 tiền, 1 quan; cấm dùng tiền bằng đồng (ai có tiền bằng đồng phải đem đổi cho nhà nước lâỳ tiền giấy). Năm 1397, ban hành chính sách "hạn điền", quy định Đại vương và Trưởng công chúa không bị hạn chế sô' ruộng đất tư, sô' còn lại không được sở hữu quá 10 mẫu, sô'ruộng thừa phải sung công. Năm 1402, nhà Hồ định lại biểu thuê'đinh, chỉ đánh vào người có ruộng; người không có ruộng, trẻ con mồ côi, đàn bà goá không phải nộp. Thuế ruộng đánh theo phép luỹ tiêh, có nhiều ruộng đóng nhiều, không có ruộng không phải đóng.
Về xã hội, Hồ Quý Ly ban hành chính sách hạn chế sô' nô tì được nuôi của các vương hầu, quý tộc, quan lại.
Năm 1401, nhà Hồ quy định chiếu theo phẩm cấp, các quan lại quý tộc chỉ được nuôi một sô'gia nô nhất định. Số thừa ra sung công. Mỗi gia nô thừa ra được nhà nước đền bù 5 quan tiền.
Nhà Hồ thực hiện chính sách hạn điển, hạn nô để làm gì ?
Những năm có nạn đói, nhà Hồ lệnh cho các quan địa phương đi khám xét, bắt nhà giàu thừa thóc phải bán cho dân đói và tổ chức nơi chữa bệnh cho dân.
(1) Hạn điền: chính sách hạn chế số lượng ruộng đất của chủ đất theo quy định của nhà nước phong kiến.
- về văn hoá, giáo dục, Hồ Quý Ly bắt các nhà sư chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục, cho dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm để dạy cho vua Trần và phi tần, cung nữ. Ông cũng sửa đổi cả chế độ thi cử, học tập.
Năm 1397, Hồ Quý Ly đề nghị đặt chức học quan ở các lộ và cấp ruộng công cho các địa phương đê’sử dụng vào việc học.
Hình 40 - Di tích thành nhà Hổ (Thanh Hoá)
Về quân sự, để đề phòng giặc ngoại xâm, Hồ Quý Ly đã thực hiện một số biện pháp nhằm tăng cường củng cố quân sự và quốc phòng.
Hồ Quý Ly cho lầm lại sổ đinh để tăng quân sô', tích cực sản xuất vũ ldĩí, chế tạo ra một loại súng mới là súng thần cơ và làm ra một loại th uyền chiêh mới gọi là làu thuyền. Những nơi hiểm yếu đều có bô'trí phòng thủ. Cho xây dựng một sô'thành kiên cô'như thành Tây Đô ở Vữứi Lộc - Thanh Hoá (còn gọi là thành nhà Hồ), thành Đa Bang (Ba Vì - Hà Nội)...
Em có nhậrt xét gì về chính sách quân sự, quốc phòng của Hồ Quý Ly ?
V nghĩa, tác dụng của cải cách Hồ Quý lụ
Trước tình trạng suy sụp của nhà Trần và cuộc khủng hoảng xã hội cuối thế kỉ XIV, Hồ Quý Ly đã thực hiện cuộc cải cách khá toàn diện đê’ đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, điều đó chứng tỏ ông là một nhà cải cách có tài và là người yêu nước thiết tha.
Những cải cách của Hồ Quý Ly ít nhiều góp phần hạn chế tệ tập trung ruộng đất của giai câp quý tộc, địa chủ, làm suy yếu thế lực của quý tộc tôn thất nhà Trần, tăng nguồn thu nhập của nhà nước và tăng cường quyền lực của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, cải cách văn hoá, giáo dục có nhiều tiến bộ.
Tuy nhiên, một số chính sách chưa triệt đê’ (gia nô, nô tì chưa được giải ' phóng thân phận), chưa phù hợp với tình hình thực tế. Chính sách cải cách cũng chưa giải quyết được những yêu cầu bức thiết của cuộc sống đông đảo nhân dân.
CÂU HỎI
Em hãy trình bày tóm tắt cuộc cải cách của Hồ Quý Ly.
Hãy nêu những mặt tiến bộ và hạn chế của cải cách Hồ Quý Ly.
Em có nhận xét, đánh giá như thế nào vê nhân vật Hồ Quý Ly ?