SGK Ngữ Văn 10 - Đạo cáo bình Ngô (tiếp theo)

  • Đạo cáo bình Ngô (tiếp theo) trang 1
  • Đạo cáo bình Ngô (tiếp theo) trang 2
  • Đạo cáo bình Ngô (tiếp theo) trang 3
  • Đạo cáo bình Ngô (tiếp theo) trang 4
  • Đạo cáo bình Ngô (tiếp theo) trang 5
  • Đạo cáo bình Ngô (tiếp theo) trang 6
  • Đạo cáo bình Ngô (tiếp theo) trang 7
  • Đạo cáo bình Ngô (tiếp theo) trang 8
ĐẠI CÁO BÌNH NGÔ
NGUYỄN TRÃI
(Tiếp theo)
Phần hai: TÁC PHẨM MHNHMHBHMBBHHBỊi
TIỂU DẪN
Sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã 15 vạn viện binh của giặc, Vương Thông buộc phải giảng hoà, chấp nhận rút quân về nước, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Dại cáo bình Ngô.
Đại cáo bình Ngô có ý nghĩa trọng đại của một bản tuyên ngôn độc lập được công bố vào tháng Chạp, năm Đinh Mùi (tức đầu nãm 1428). Bài đại cáo này mang đặc trưng cơ bản của thể cáo nói chung, đồng thời có những sáng tạo riêng của Nguyễn Trãi.
Cáo là thể văn nghị luận có từ thòi cổ ở Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp, tuyên ngôn một sự kiện để mọi người cùng biết. Trong thể cáo, có loại văn cáo thường ngày như chiếu sách của vua truyền xuống về một vấn đề nào đó, có loại văn đại cáo mang ý nghĩa một sự kiện trọng đại, có tính chất quốc gia. Cáo có thể được viết bằng vãn xuôi hay vãn vần nhưng phần nhiều được viết bằng văn biền ngẫu, không có vần hoặc có vần, thường có đối, câu dài ngắn không gò bó, mỗi cặp hai vế đối nhau. Cũng như hịch, cáo là thể văn hùng biện, do đó lời lẽ phải đanh thép, lí luận phải sắc bén, kết cấu phải chặt chẽ, mạch lạc.
Đại cáo bình Ngô do Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi soạn thảo là bài cáo có ý nghĩa trọng đại của quốc gia, được công bố rộng khắp về việc dẹp yên giặc Ngô (ở đây, chữ Ngô chỉ giặc Minh xâm lược). Bài đại cáo này được viết theo lối văn biền ngẫu, có vận dụng thể tứ lục (từng cặp câu, mỗi câu mười chữ ngắt theo nhịp 4/6), hình tượng nghệ thuật sinh động, gợi cảm.
Bố cục bài Đại cáo bình Ngô gồm bốn phần (NBS đã đánh số để tiện theo dõi):
Nêu luận đề chính nghĩa.
Vạch rõ tội ác kẻ thù.
Kể lại quá trình chinh phạt gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa.
Tuyên bố chiến quả, khảng định sự nghiệp chính nghĩa.
VĂN BẢN
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt(1) trước lo trừ bạo.
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền vãn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phưong.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đợi nào cũng có.
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết(ì) Điếu phạt: [điếu : thương, phạt: trừng trị) rút từ ý ‘‘Điếu dân phạt tội” trong Kinh Thư nói về việc Thang, Vũ vì dân mà đánh kẻ có tội là Kiệt, Trụ.
 	Triệu Tiết: tướng nhà Tống cùng Quách Quỳ đem quân xâm lược nước ta, bị Lí Thường Kiệt đánh đuổi.
 thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử	Hăm Tử: (thuộc Hưng Yên) noi Trần Nhật Duật phá quân Toa Đô.
 bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tưoi Ồ Mã	Toa Đô, Ồ Mã: hai tướng nhà Nguyên.
.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ	Con đỏ : con mói đẻ (nghĩa đen) ; ở đây chỉ nhân dân, theo nghĩa : nhà vua chân chính yêu dân như con ,mới đẻ.
 xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất tròi,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen(1), noi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những nỗi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc	Chim trả, hươu đen: hai loài vật đều quý, lông chim trả màu tím làm áo và đệm, nhung hươu làm vị thuốc bổ.
 	Trúc: thời xưa chép sử sách bằng cách dùng dao khắc chữ ttên thẻ trúc, rồi quét sơn lên.
 Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được ?
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Ngầm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống.
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm tròi;
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao	Sách lược thao : sách dạy cách dùng binh, đánh ưận.
 	Hưng phế: hưng: nói một triều đại đang lên, phế: nói một triều đại đang xuống và bị lật đổ.
 suy xét đã tinh;
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế® đắn đo càng kĩ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi	Đồ hồi: mưu tính việc khôi phục lại.
 	Duy ác (hay ổ'c): màn che, chỗ bộ tham mưu trong quân đội xưa, nơi bàn bạc việc quân.
 	Về đông: chữ lấy từ Hán thư, từ câu nói của Lưu Bang (Hán Cao Tổ). Khi bị Hạng Vũ đẩy vào đất Tây Thục, Lưu Bang bực tức nói: "Dư diệc dục đông nhĩ, an năng uất uất cửu cư thử hồ” (Ta cũng muốn trở về đông, sao chịu chết ải ở chốn này).
 	Phía tả: Tín Lăng Quân nước Nguy, nghe tiếng Hầu Doanh là một hiền sĩ, mình ngồi phía hữu, dành phía tả cho Hầu Doanh, tả được coi như ttên hữu; có ý tôn trọng người hiền.
.
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đương mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu.
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đờ đần,
Noi duy ác® hiếm người bàn bạc.
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông®;
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành phía tả®.
Thế mà:
Trông người người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi, Tự ta ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần thì giận hung đồ ngang dọc,
Phần thì lo vận nước khó khăn.
Khi Linh Sơn(1) lương hết mấy tuần,
Khi Khôi Huyện	Linh Sơn : núi Chí Linh, một ngọn núi hiểm trở ở xã Giao An, huyện Lang Chánh, Thanh Hoá.
 	Khôi Huyện : lâu nay người ta vẫn cho rằng đây là vùng Khôi Sách, gần Nho Quan, Ninh Bình, giáp Thanh Hoá; gần đây có ý kiến cho rằng Khôi Huyện ở mạn Bá Thước, Thanh Hoá.
 quân không một đội.
Tròi thử lòng ưao cho mệnh lớn,
Ta gắng chí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc	Dựng cần trúc : lấy điển cũ nói về Trần Thắng, Ngô Quảng do khỏi nghĩa quá gấp không kịp may cờ, giơ cần trúc làm cờ (yết can vi kì).
 	Hoà nước sông: lấy điển trong Văn tuyển chép lời Hoàng Thạch Công : “Xưa có viên tướng giỏi, khéo dùng binh, nhân có người biếu chai rượu, viên tướng đó truyền tập họp quân đội bên dòng sông, rồi đổ chai rượu xuống dòng sông để mọi người đều nhắp, gọi là chia ngọt sẻ bùi, cùng nhau chiến đấu một lòng”, về điển này, theo truyền thuyết, ở huyện Lang Chánh, Thanh Hoá có truyện Suối rượu ; ở huyện Thường Xuân, Thanh Hoá có truyện Hòn đá khao đều nói Lê Lợi xưa có làm động tác đổ rượu xuống sông khao quân.
 	Bồ Đằng: tên một ngọn núi, còn gọi là Bồ Liệt, Bồ Cứ thuộc Quỳ Châu, Nghệ An.
 	Trà Lãn : một địa điểm thuộc xã Bồng Khê, huyện Con Cuông, Nghệ An.
 ngọn cờ phấp phới; Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông® chén rượu ngọt ngào. Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh ;
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng® sấm vang chóp giật,
Miền Trà Lân® trúc chẻ tro bay	Trúc chẻ tro bay: quân giặc bị tan nhanh dễ như thể chẻ tre, hay như tro bay.
 	Sĩ khí, quân thanh: tinh thần và thanh thế của quân đội.
 	Trần Trí, Sơn Thọ, Lí An, Phương Chính : bốn viên tướng của quân Minh.
.
Sĩ khí đã hăng,
Quân thanh càng mạnh®.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hoi mà mất vía,
Lí An, Phương Chính® nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinhh) quân ta chiếm lại;
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô	Tây Kinh : Tây Nhai, hoặc Tây Giai do nhà Hồ xây dựng, di tích hiện còn ở huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoá (không nên nhầm lẫn với Lam Kinh ở Lam Son).
 	Đông Dô : Hà Nội ngày nay.
 	Nính Kiều, Tốt Động: hai địa điểm ở Chưong Mĩ, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).
 đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm ;
Tốt Độngí3) thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc, Trần Hiệp đã phải bêu đầu ;
Mọt gian kẻ thù, Lí Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy;
Mã Anh	Trần Hiệp, Lí Lượng, Vương Thông, Mã Anh : cũng là các viên tướng của quân Minh.
 cứu trận đánh, mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt ;
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt, tâm công	Mưu phạt, tâm công : đánh bằng mưu, đánh bằng tâm (đánh bằng nhân nghĩa, dùng nhân nghĩa để thuyết phục, cảm hoá).
 	Tuyên Đức: niên hiệu vua Tuyên Tông nhà Minh, ở ngôi từ 1426 đến 1435.
.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ ;
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác ;
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhài con Tuyên Đứct6), động binh không ngừng;
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng	Thạnh, Thăng: Mộc Thạnh, Liễu Thăng - hai tướng nhà Minh dẫn hai đạo viện binh sau cùng và đều thất bại.
, đem dầu chữa cháy.
Đinh Mùi tháng chín Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn tiến lại;
Năm ấy tháng mưòi, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong ;
Ta sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.
Ngày mười tám, trận Chi Lãng	Chi Lăng: địa điểm xưa là cửa ải, noi Liễu Thăng bị giết (gần ga xe lửa Chi Lăng hiện nay ở Lạng Son).
 	Mã An : một địa điểm ở Lạng Son.
, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã AnC9), Liễu Thăng cụt đầu,
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá,
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau.
Lại thêm quân bốn mặt vây thành,
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc.
Sĩ tốt kén người hùng hổ,
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh.
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận(1), tan tác chim muông.
Nổi gió to trút sạch lá khô,
Thông tổ kiến phá toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang	Đánh một trận, đánh hai trận : dịch thoát chữ nhất cổ (đánh hồi ttống thứ nhất), tái cổ (đánh hồi trống thứ hai).
 	Lạng Giang: một địa điểm thuộc Bắc Giang.
 	Xương Giang : sông chảy qua phủ Lạng Thưcmg. Thành Xưcmg Giang còn di tích gân thành phố Bắc Giang. Bình Than : thuộc vùng Phả Lại hiện nay.
, Lạng Sơn, thây chất đầy đường ;
Xương Giang, Bình Than®, máu trôi đỏ nước.
Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chẹn ở Lê Hoa	Lê Hoa : một cửa ải xưa kia, giáp ranh huyện Bát Xát, Lào Cai và huyện Mông Tự, Vân Nam (Trung Quốc). Ở đó có sông Lê Hoa. Nay vùng này không có cửa ải.
 	Cần Trạm : vùng Kép, Lạng Son.
 	Lãnh Câu, Đan Xá : hai địa điểm giáp ranh giữa Vân Nam và nước ta. Chưa rõ đích xác hai địa điểm này ở vùng Lai Châu hay vùng Hà Giang.
, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật;
Thua quân ta ở cần Trạm®, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân. Suối Lãnh Câu® máu chảy trôi chày	Máu chảy trôi chày : do chữ “huyết lưu phiêu chử” trong thiên Vũ thành (Kinh Thứ}, ý nói máu chảy nhiều, trôi cả chày (chày là một loại vũ khí).
 	Thần vũ chẳng giết hại: uy vũ thiêng liêng không giết hại mà vân thắng.
, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc; Thành Đan Xá thây chật thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp ;
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng.
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng;
Thần vũ chảng giết hại®, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.
Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc ;
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực lòng ;
Ta lấy toàn qúân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu,
Cũng là chưa thấy xưa nay.
Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái(1),
Nhật nguyệt hối rồi lại minh	Kiền khôn : (kiền hay càn chi trời, khôn chi đất) trời đất. Bĩ, thái: dịch hai quẻ bĩ và thái trong
Kinh Dịch (bĩ: bế tắc, thái: thông suốt).
 	Hối rồi lại minh: tối rồi lại sáng.
.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy. Than ôi!
Một cỗ nhung y	Nhung y: áo giáp mặc để ra trận, đây chỉ việc đánh giặc, ý này cũng rút từ thiên Vũ thành đã nêu ở trên, tức nói việc Vũ Vưong đánh Trụ : "Chỉ một cỗ nhung y mà thiên hạ thu về được” (Nhất nhung y, thiên hạ đại định). Ở đây, chỉ Lê Lợi.
 chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm ;
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân	Duy tân: đổi mới; ý nói cuộc khởi nghĩa Lam Son đã mở ra một kỉ nguyên mới - kỉ nguyên xây dựng một nhà nước Đại Việt tự chủ và thịnh vượng, dưới triều vua mới.
 khắp chốn.
Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay.
Theo bản dịch của BÙI KỈ	Gần đây có ý kiến cho rằng bản dịch này là của Trần Trọng Kim.
, BÙI VĂN NGUYÊN chỉnh lí (Họp tuyển thơ văn Việt Nam, tập II - Vãn học thế kỉ X - thế kí XVII, Sđd.
Có tham khảo một số bản dịch khác.)
HUỐNG DẦN HỌC BÀI
Bài Đại cáo bình Ngô gồm 4 đoạn. Hãy tóm lược nội dung của từng đoạn. Nội dung của từng đoạn hướng vào chủ đề chung của bài cáo là nêu cao tư tưởng nhân nghĩa và tư tưởng độc lập dân tộc như thế nào ?
Tìm hiểu đoạn mở đầu (“Từng nghe... chứng cớ còn ghi”):
Có những chân lí nào được khẳng định để làm chỗ dựa, làm căn cứ xác đáng cho việc triển khai toàn bộ nội dung bài cáo ?
Vì sao đoạn mở đầu có ý nghĩa như lòi tuyên ngôn độc lập ?
Tác giả đã có cách viết như thế nào để làm nổi bật niềm tự hào dân tộc ? (Lưu ý cách dùng từ, sử dụng nghệ thuật so sánh, câu văn biền ngẫu sóng đôi, cân xứng, cách nêu dẫn chứng từ thực tiễn,...)
Tìm hiểu đoạn 2 (“Vừa rồi... Ai bảo thần nhân chịu được”):
Tác giả đã tố cáo những âm mưu, những hành -động tội ác nào của giặc Minh ? Âm mưu nào là thâm độc nhất, tội ác nào là man rợ nhất ?
Nghệ thuật của đoạn cáo trạng tội ác kẻ thù có gì đặc sắc ? (Lưu ý những câu văn giàu hình tượng; giọng văn thay đổi linh hoạt, phù họp vói cảm xúc.)
Tìm hiểu đoạn 3 (“Ta đây... Cũng là chưa thấy xưa nay”):
Giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa Lam Son được tác giả tái hiện như thế nào ? (Có những khó khăn gian khổ gì ? Người anh hùng Lê Lợi tiêu biểu cho cuộc khởi nghĩa có ý chí, quyết tâm như thế nào ? Sức mạnh nào giúp quân ta chiến thắng ?)
Khi tái hiện giai đoạn phản công thắng lọi, bài cáo miêu tả bức tranh toàn cảnh cuộc khỏi nghĩa Lam Son:
Cho biết có những trận đánh nào, mỗi trận có đặc điểm gì nổi bật ?
Phân tích những biện pháp nghệ thuật miêu tả thế chiến thắng của ta và sự thất bại của giặc.
Phân tích tính chất hùng tráng của đoạn văn được gọi lên từ ngôn ngữ, hình ảnh, nhịp điệu câu văn.
Tìm hiểu đoạn kết (“Xã tắc từ đây vững bền... Ai nấy đều hay”):
Giọng văn ở đoạn này có gì khác vói những đoạn trên ? Do đâu có sự khác nhau đó ?
Trong lời tuyên bố nền độc lập dân tộc đã được lập lại, Đại cáo bình Ngô đồng thời nêu lên bài học lịch sử. Theo anh (chị), có những bài học lịch sử nào và ý nghĩa của bài học lịch sử đó đối với chúng ta ngày nay như thế nào ?
6*. Rút ra những giá trị chung về mặt nội dung và nghệ thuật của Đại cáo bình
Ngô, đồng thòi phân tích những giá trị đó.
a) Đại cáo bình Ngô được coi là bản tuyên ngôn độc lập, tác phẩm có mang ý nghĩa tuyên ngôn về quyền sống của con người hay không ? Hãy lí giải.
h) Đại cáo bình Ngô có sự kết họp hài hoà yếu tố chính luận và yếu tố văn chương, anh (chị) hãy phân tích để làm sáng tỏ đặc điểm này về các mặt: kết cấu, lập luận, nghệ thuật sử dụng từ ngữ, xây dựng hình tượng, nghệ thuật sử dụng câu văn, nhịp điệu.
	GHI NHỚ	
Với nghệ thuật chính luận tài tình, với cảm hứng trữ tình sâu sắc, Đại cáo bình Ngô tố cáo tội ác kẻ thù xâm lược, ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Son. Bài cáo được coi là bản tuyên ngôn độc lập, một áng "thiên cố hùng văn" của dân tộc ta.
I	,	—1
LUYỆN TẬP
Lập sơ đồ kết cấu của Đại cáo bình Ngô và phân tích tác dụng của nghệ thuật kết cấu đó.
Học thuộc đoạn mở đầu bài Đại cáo bình Ngô.