SGK Ngữ Văn 10 - Truyện Kiều (tiếp theo - Trao duyên)

  • Truyện Kiều (tiếp theo - Trao duyên) trang 1
  • Truyện Kiều (tiếp theo - Trao duyên) trang 2
  • Truyện Kiều (tiếp theo - Trao duyên) trang 3
  • Truyện Kiều (tiếp theo - Trao duyên) trang 4
TRUYỆN KIÉU
(Tiếp theo)
Phần hai: CÁC ĐOẠN TRÍCH
TRAO DUYÊN
KẾT QUẢ CẦN ĐẠT-
Hiểu được tình yêu sâu nặng và bi kịch của Kiều qua đoạn trích. Đối với Kiều, tình và hiếu thống nhất chặt chẽ.
Nắm vững nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật qua đoạn trích.
TIỂU DẦN
Bọn sai nha gây nên vụ án oan sai đối vói gia đình Thuý Kiều, nàng buộc phải hi sinh mối tình với Kim Trọng, bán mình lấy tiền hối lộ cho chúng để cứu cha và em khỏi đòn tra khảo dã man. Việc bán mình đã thu xếp xong xuôi, Kiều ngồi trắng đêm nghĩ đến thân phận và tình yêu rồi nàng nhờ em gái là Thuý Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. Đoạn trích sau đây (từ câu 723 đến câu 756) là lời Thuý Kiều nói cùng Thuý Vân.
Thuý Kiều - Thuý Vân (Tranh minh hoạ của Nguyễn Thị Hợp)
VĂN BẢN
"... Cậy em em có chịu lòi,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tưong tư,
Keo loanh) chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình® khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lòi nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối® hãy còn thơm lây.
Chiếc vành với bức tờ mâyKeo loan : thứ keo chế bằng huyết chim loan dùng để gắn kết các vật.
Quạt ước, chén thề : hai người tặng nhau quạt để ngỏ ý ước hẹn trăm năm, uống rượu thề nguyền chung thuỷ.
Hiếu tình : hiếu với cha mẹ, tình với người yêu. Hiếu : một phạm trù đạo đức quan trọng của đạo Nho. Hi sinh quyền lọi riêng tư, cá nhân, kể cả tình yêu cho hiếu là một nguyên tắc ứng xử phổ biến của người xưa.
Chín suối: tức “cửu tuyền”, chỉ âm phủ - cõi của người chết theo quan niệm xưa.
Vành : cái vòng, xuyến đeo tay. Câu 318 : “Xuyến vàng đôi chiếc khăn là một vuông”. Tờ mây: tờ giấy có trang trí hình mây ghi lời thề nguyền của hai người, cũng có thể là thư tù giữa hai người.
Mệnh bạc: [bạc: mỏng, đối lập với hậu : dày dặn} số mệnh bất hạnh.
Đàn và hưong: những vật mà Kim - Kiều từng có chung kỉ niệm (đốt hưong và gảy đàn bên nhau). Xem thêm chú thích (1), tr. 105.
,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc® ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa®.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này(1).
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về 	Mai sau dù có bao giờ - Đốt lò hương ấy so tơ phím này: Kiều nhớ đến đêm thề nguyền khi nàng sang nhà Kim Trọng, chàng Kim đã thêm hưong vào lò hưong, sau khi thề nguyền, nàng đã đánh đàn cho Kim Trọng nghe.
 	Người xưa tin rằng có linh hồn tồn tại khi thể xác không còn. Hồn Đạm Tiên cũng đã hiện về qua làn gió “Ào ào đổ lộc rung cây - Ở trong dường có hương bay ít nhiều”.
 	Bồ liễu: tên một loại cây, chỉ người phụ nữ yếu đuối.
.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu® đền nghi trúc mai	Trúc mai: cây trúc và cây mai, chỉ tình yêu lứa đôi.
 	Dạ đài: âm phủ.
 	Tình quân : {quân : từ tôn xưng có sắc thái tôn trọng) người con gái xưa dùng từ này để gọi người yêu.
.
Dạ đài® cách mặt khuất lời,
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân !
Trăm nghìn gửi lạy tình quân®,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
{Theo ĐÀO DUY ANH, Từ điển “Truyện Kiều”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974)
HƯỚNG DẪN HỌC BÀI
Việc Kiều nhắc đến các kỉ niệm của tình yêu có ý nghĩa gì ?
Hãy tìm những từ ngữ cho thấy Kiều đã nghĩ đến cái chết. Việc tập trung dày đặc những từ ngữ đó có ý nghĩa gì ?
Kiều đối thoại với những ai ? Phân tích diễn biến tâm trạng của Kiều qua các lời thoại trong đoạn trích.
Nhận xét về mối quan hệ giữa tình cảm và lí trí, nhân cách và thân phận của Kiều qua đoạn trích.
,	GHI NHỚ	.
Đoạn trích thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Thuý Kiều, đồng thời cho thấy tài năng miêu tả nội tâm nhân vật của Nguyễn Du.