SGK Ngữ Văn 10 - Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Tản Viên từ phán sự lục - trích Truyền kì mạn lục)

  • Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Tản Viên từ phán sự lục - trích Truyền kì mạn lục) trang 1
  • Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Tản Viên từ phán sự lục - trích Truyền kì mạn lục) trang 2
  • Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Tản Viên từ phán sự lục - trích Truyền kì mạn lục) trang 3
  • Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Tản Viên từ phán sự lục - trích Truyền kì mạn lục) trang 4
  • Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Tản Viên từ phán sự lục - trích Truyền kì mạn lục) trang 5
  • Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Tản Viên từ phán sự lục - trích Truyền kì mạn lục) trang 6
  • Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Tản Viên từ phán sự lục - trích Truyền kì mạn lục) trang 7
CHUYỆN CHÚC PHÁN sụ 	NGUYỄN Dữ
ĐỂN TẢN VIÊN
{Tản Viên từ phán sự lục - trích Truyền kì mạn lục)
KẾT QUẢ CẦN ĐẠT
Thấy được tính cách dũng cảm, kiên cường của nhân vật Ngô Tử Văn - đại diện cho chính nghĩa chống lại những thế lực gian tà ; qua đó bồi dưỡng thêm lòng yêu chính nghĩa và niềm tự hào về người trí thức nước Việt.
Thấy được nghệ thuật kể chuyện sinh động, hấp dẫn, giàu kịch tính của tác giả Truyền kì mạn lục.
TIỂU DẪN
Nguyễn Dữ (có người đọc là Nguyễn Tự), sống vào khoảng thế kỉ XVI, chưa rõ năm sinh và năm mất, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dưong. ông xuất thân trong gia đình khoa bảng (cha đỗ Tiến sĩ đời Lê Thánh Tông), từng đi thi và đã ra làm quan, nhưng không bao lâu thì từ quan lui về ẩn dật. ông để lại tác phẩm nổi tiếng là Truyền kì mạn lục, qua tác phẩm có thể thấy được quan điểm sống và tấm lòng của ông với cuộc đời.
Truyền kì là một thể văn xuôi tự sự thời trung đại phản ánh hiện thực qua những yếu tố kì lạ, hoang đường. Trong truyện truyền kì, thế giới con người và thế giới cõi âm với những thánh thần, ma quỷ có sự tương giao. Đó chính là yếu tố tạo nên sự hấp dẫn đặc biệt của thể loại. Tuy nhiên, đằng sau những tình tiết phi hiện thực, người đọc có thể tìm thấy những vấn đề cốt lõi của hiện thực cũng như những quan niệm và thái độ của tác giả.
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là tác phẩm viết bằng chữ Hán, gồm 20 truyện, ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVI. Tác phẩm thực sự là một sáng tác văn học với sự gia công hư cấu, sáng tạo, trau chuốt, gọt giũa của Nguyễn Dữ chứ không phải chỉ là một công trình ghi chép đon thuần. Các truyện hầu hết ở thời Lí, Trần, Hồ, Lê sơ, và đều có yếu tố hoang đường, nhưng đằng sau những yếu tố hoang đường đó chính là hiện thực xã hội phong kiến đương thời với đầy rẫy những tệ trạng mà tác giả muốn vạch trần, phê phán. Qua tác phẩm, người đọc thấy được số phận bi thảm của những con người nhỏ bé trong xã hội, những bi kịch tình yêu mà thiệt thòi thường rơi vào người phụ nữ. Tác phẩm cũng thể hiện tinh thần dân tộc, bộc lộ niềm tự hào về nhân tài, văn hoá nước Việt, đề cao đạo đức nhân hậu, thuỷ chung, đồng thời khẳng định quan điểm sống ‘Tánh đục về trong” của lớp trí thức ẩn dật đương thời. Truyền kì mạn lục vừa có giá trị hiện thực và nhân đạo cao, vừa là một tuyệt tác của thể loại truyền kì, từng được Vũ Khâm Lân (thế kỉ XVII) khen tặng là “thiên cổ kì bút”. Tác phẩm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài và được đánh giá cao trong số các tác phẩm truyền kì ở các nước đồng văn.
VĂN BẢN
Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang. Chàng vốn khảng khái(1), nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc ngưòi ta vẫn khen là một người cưong trực. Trong làng trước có một ngôi đền linh ứng lắm. Cuối đòi nhà Hồ, quân Ngô sang lấn cướp, vùng ấy thành một noi chiến trường. Bộ tướng	Khảng khái: ngay thẳng và hào hiệp, ưa làm việc nghĩa.
 	Bộ tướng: tướng dưới quyền của một vị đại tướng.
 	Bách hộ: chức quan võ vào thời Nguyên và thời Minh ở Trung Quốc.
 của Mộc Thạnh có viên Bách hộ® họ Thôi, tử trận ở gần đền, từ đấy làm yêu làm quái trong dân gian. Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm gội sạch sẽ, khấn tròi, rồi châm lửa đốt đền. Mọi người đều lắc đầu lè lưõi, lo sợ thay cho Tử Văn, nhưng chàng vẫn vung tay không cần gì cả.
Đốt đền xong, chàng về nhà, thấy trong mình khó chịu, đầu lảo đảo và bụng run run, rồi nổi lên một con sốt nóng sốt rét. Trong khi sốt, chàng thấy một người khôi ngô, cao lớn, đầu đội mũ trụ đi đến, nói năng và quần áo rất giống người phưong Bắc, tự xưng là cư sĩ	Cư sĩ: người trí thức đi ở ẩn.
, đến đòi làm trả lại ngôi đền như cũ và nói:
Nhà ngưoi đã theo nghiệp nho, đọc sách vở của thánh hiền, há không biết cái đức của quỷ thần sao, cớ gì lại dám khinh nhờn huỷ tượng, đốt đền, khiến cho hưong lửa không có chỗ tựa nưong, oai linh không có noi hiển hiện, vậy bảo làm sao bây giờ ? Biết điều thì dựng trả ngôi đền như cũ. Nếu không thì, vô cớ huỷ đền Lư Sou, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ	Cố Thiệu: người thòi Tam quốc, làm quan ở Dự Chưong, chủ trưong việc phá huỷ các đền thờ dâm thần, trong số đó có đền Lư Son. Sau thần Lư Son đến xin dựng đền lại, cố Thiệu chỉ cười mà không ttả lời. Thần giận bảo : "Ba năm nữa ngưod sẽ chết”. Đến kì hạn đó, Thiệu bị ốm, mọi người đều khuyên Thiệu nên dựng lại đền, Thiệu nói: "Tà không thể thắng được chính”. Rồi sau Thiệu chết.
.
Tử Vãn mặc kệ, vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên. Người kia tức giận nói:
Phong đô	Phong đô : phủ của Diêm Vưong ở cõi âm.
Thảm ngược: tàn ác quá mức.
Hưng yêu tác quái: dấy lên những chuyện yêu ma, làm những điều quỷ quái; ý nói gây hại cho người.
Ngự sử đại phu: chức quan phụ trách việc can gián vua.
Lí Nam Đế: tức Lí Bôn, còn gọi là Lí Bí, khởi nghĩa đuổi quân đô hộ nhà Lưong, lên ngôi hoàng đế, xưng là Nam Việt Đế, ở ngôi được 4 năm (544 - 548), đặt quốc hiệu là Vạn Xuân.
Minh ti: âm phủ.
 không xa xôi gì, ta tuy hèn, há lại không đem nổi nhà ngưoi đến đấy. Không nghe lời ta thì rồi sẽ biết.
Nói rồi phất áo đi.
Chiều tối, lại có một ông già, áo vải mũ đen, phong độ nhàn nhã, thủng thỉnh đi vào đến trước thềm, vái chào mà rằng :
'Tôi là Thổ công ở đây, nghe thấy việc làm rất thú của nhà thầy, vậy xin đến để tỏ lòi mừng.
Tử Văn kinh ngạc nói:
Thế người đội mũ trụ đến đây ban nãy, chẳng phải là Thổ công đấy ư ? Sao mà nhiều thần quá vậy ?
Ong già nói:
ô, đấy là viên tướng bại trận của Bắc triều, cái hồn bơ vơ ở Nam quốc, tranh chiếm miếu đền của tôi, giả mạo họ tên của tôi, quen dùng chước dối lừa, thích làm trò thảm ngược®, Thượng đế bị nó bưng bít, hạ dân bị nó quấy rầy, phàm những việc hưng yêu tác quái® đều tự nó cả, chứ có phải tôi đâu. Xin kể đầu đuôi để nhà thầy nghe :
“Tôi làm chức Ngự sử đại phu(3) từ đời vua Lí Nam Đế(4), vì chết về việc cần vương mà được phong ở đây, giúp dân độ vật đã hơn một nghìn năm nay, khi nào lại làm việc gieo tai rắc vạ để kiếm miếng ăn như tên giặc giảo hoạt kia đã làm. Gần đây vì tôi thiếu sự đề phòng, bị nó đánh đuổi, nên phải đến nương tựa ở đền Tản Viên đã vài năm nay”.
Tử Văn nói:
Việc xảy ra đến như thế, sao ngài không kiện ở Diêm Vương và tâu lên Thượng đế, lại đi khinh bỏ chức vị, làm một người áo vải nhà quê ?
Ông già chau mặt nói:
Rễ ác mọc lan, khó lòng lay động. Tôi đã định thưa kiện, nhưng mà có nhiều nỗi ngăn trở: Những đền miếu gần quanh, vì tham của đút, đều bênh vực cho nó cả. Tôi chỉ giữ được một chút lòng thành, nhưng không làm thế nào để thông đạt được lên, cho nên đành tạm ẩn nhẫn mà ngồi xó một nơi.
Tử Văn nói:
Hắn có thực là tay hung hãn, có thể gieo vạ cho tôi không ?
Hắn quyết chống chọi vói nhà thầy, hiện đã kiện thầy ở Minh ti®. Tôi nhân lúc hắn đi vắng lén đến đây báo cho nhà thầy biết để mà liệu kế, khỏi phải chết một cách oan uổng.
Ông già lại dặn Tử Văn :
Hễ ở Minh ti có tra hỏi, thầy cứ khai ra những lòi nói của tôi. Nếu hắn chối, thầy kêu xin tư giấy đến đền Tản Viên, tôi sẽ khai rõ thì nó phải dớ miệng. Nếu không như thế thì tôi đến vùi lấp trọn đòi mà thầy cũng khó lòng thoát nạn.
Tử Văn vâng lời. Đến đêm, bệnh càng nặng thêm, rồi thấy hai tên quỷ sứ đến bắt đi rất gấp, kéo ra ngoài thành về phía đông. Đi độ nửa ngày đến một toà nhà rất lớn, xung quanh có thành sắt cao vọi đến mấy chục trượng. Hai tên quỷ đến nói với người canh cổng, người canh cổng đi vào một lúc rồi ra truyền chỉ rằng:
Tội sâu ác nặng, không được dự vào hàng khoan giảm(1).
Nói rồi xua tay bảo đi ra phía bắc. Ở đó có một con sông lớn, trên sông bắc một cái cầu dài ước hon nghìn thước, gió tanh sóng xám, hoi lạnh thấu xưong. Hai bên cầu có đến mấy vạn quỷ Dạ Xoa đều mắt xanh tóc đỏ, hình dáng nanh ác. Hai con quỷ dùng gông dài, thừng lớn gông trói Tử Văn mà giải đi rất nhanh. Tử Văn kêu to :
Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian, có tội lỗi gì xin bảo cho, không nên bắt phải chết một cách oan uổng.
Chợt nghe trên điện có lời quát:
Tên này bướng bỉnh ngoan cố, nếu không phán đoán cho rõ, chưa chắc nó đã chịu nhận tội.
Bèn sai dẫn Tử Văn vào cửa điện. Tử Văn vào đến noi, thấy người đội mũ trụ đang kêu cầu ở trước sân.
Diêm Vưong mắng Tử Văn rằng :
Kẻ kia là một người cư sĩ, trung thuần lẫm liệt	Khoan giảm : rộng lượng giảm bớt hình phạt.
 	Trung thuần: một lòng ngay thẳng; lẫm liệt: mạnh mẽ, oai phong.
, có công với tiên triều, nên hoàng thiên cho được huyết thực	Được huyết thực : được thờ tự và hưởng những vật phẩm cúng tế là động vật như bò, dê, lợn, gà,...
 ở một ngôi đền để đền công khó nhọc. Mày là một kẻ hàn sĩ	Hàn sĩ: học trò nghèo.
, sao dám hỗn láo, tội ác tự mình làm ra, còn trốn đi đằng nào ?
Tử Văn bèn tâu trình đầu đuôi như lời Thổ công đã nói, lòi rất cứng cỏi, không chịu nhún nhường chút nào. Người đội mũ trụ nói:
Ấy là ở trước vưong phủ mà hắn còn ghê gớm như thế, mồm năm miệng mười, đom đặt bịa tạc. Huống hồ ở một noi đền miếu quạnh hiu hắn sợ gì mà không dám cho một mồi lửa.
Hai bên cãi cọ nhau mãi vẫn chưa phân phải trái, vì thế Diêm Vưong sinh nghi. Tử Văn nói:
Nếu nhà vua không tin lòi tôi, xin đem tư giấy đến đền Tản Viên để hỏi; không đúng như thế, tôi xin chịu thêm cái tội nói càn.
Bấy giờ người kia mới có vẻ sự, quỳ xuống tâu rằng :
Gã kia một kẻ học trò, thật là ngu .bướng, quả đáng tội lắm. Nhưng đã trách mắng như vậy, cũng đủ răn đe rồi. Xin đại vưong khoan dung tha cho hắn để tỏ cái đức rộng rãi. Chảng cần đòi hỏi dây dưa. Nếu thẳng tay trị tội nó, sợ hại đến cái đức hiếu sinh.
Diêm Vương quát lớn rằng:
Cứ như lời hắn thì nhà ngươi đáng tội chết. Điều luật trị tội lừa dối đã sẵn sàng đó. Cớ sao nhà ngươi dám làm sự lập lờ nhận tội như vậy ?
Diêm Vương lập tức sai người đến đền Tản Viên để lấy chứng thực. Sai nhân về tâu, nhất nhất đúng với lời Tử Văn. Vương cả giận, bảo các phán quan rằng:
Lũ các ngươi chia toà sở, giữ chức sự, cầm lệnh chí công, làm phép chí công, thưởng thì xứng đáng mà không thiên vị, phạt thì đích xác mà không nghiệt ngã, vậy mà còn có sự dối trá càn bậy như thế; huống chi về đời nhà Hán, nhà Đường buôn quan bán ngục, thì những mối tệ còn nói sao hết được !
Liền sai lấy lồng sắt chụp vào đầu, khẩu gỗ nhét vào miệng, bỏ người ấy vào ngục Cửu u(1).
Vương nghĩ Tử Văn có công trừ hại, truyền cho vị thần đền kia, từ nay phần xôi lợn của dân cúng tế, nên chia cho Tử Văn một nửa và sai lính đưa Tử Văn về.
Chàng về đến nhà, té ra mình chết đã được hai ngày rồi. Nhân đem những việc đã qua kể cho mọi người nghe, ai cũng kinh hãi và không tin là thực. Sau đó họ đón một bà đồng về phụ bóng	Ngục Cứu u: ngục tối chín tầng ở âm phủ, nơi giam giữ và trừng phạt những kẻ khi sống gây nhiều tội ác.
 	Phụ bóng : mời gọi hồn người chết hoặc thần thánh về. Theo sự mê tín của dân gian, có thể gọi hồn người chết hoặc thánh thần ở cõi âm về nhập vào người đang sống để trò chuyện. Người có nhiều cảm ứng với cõi âm, có thể cho mượn xác để người cõi âm nhập vào gọi là “ông (bà) đồng” hay “ông (bà) bóng”.
, đồng lên cũng nói đúng như lòi Tử Văn. Người làng bèn mua gỗ, dựng lại một toà đền mói. Còn ngôi mộ của tên tướng giặc kia thì tự dưng thấy bị bật tung lên, hài cốt tan tành ra như cám vậy.
Sau đó một tháng, Tử Văn thấy Thổ công đến bảo :
Lão phu đã trở về miếu, công của nhà thầy không biết lấy gì đền đáp được. Nay thấy ở đền Tản Viên khuyết một chân phán sự, lão đã vì nhà thầy hết sức tiến cử, được đức Thánh Tản ngài đã bằng lòng, vậy xin lấy việc đó để đền ơn nghĩa. Người ta sống ở đời, xưa nay ai chẳng phải chết, miễn là chết đi còn được tiếng về sau. Nếu trùng trình độ nửa tháng, sợ sẽ về tay người khác mất. Nên cố gắng đi, đừng coi là việc thường.
Tử Văn vui vẻ nhận lời, bèn thu xếp việc nhà, rồi không bệnh mà mất.
Năm Giáp Ngọ, có người ở thành Đông Quan	Đông Quan : tức thành Thăng Long, nay là Hà Nội.
 vốn quen biết với Tử Văn, một buổi sớm đi ra ngoài cửa tây vài dặm, trông thấy trong sương mù có xe ngựa đi đến ầm ầm, lại nghe tiếng quát:
Người đi đường tránh xa, xe quan phán sự!
Người ấy ngẩng đầu trông thì thấy, người ngồi trên xe chính là Tử Vãn. Song Tử Văn chỉ chắp tay thi lễ chứ không nói một lời nào, rồi thoắt đã cưõi gió mà biến mất. Đến nay con cháu Tử Văn hãy còn, ngưòi ta truyền rằng đó là. “nhà quan phán sự” !
Than ôi ỉ Từ đây đến hết là lời bình (cuối mỗi truyện có phần bình luận ngắn của chính tác giả - nêu
nhận xét về sự việc, nhân vật trong truyện và đưa ra quan điểm hoặc lòi khuyên của mình).
 Người ta thường nói: “Cứng quá thì gãy". Kẻ sĩ chỉ lo không cứng cỏi được, còn gãy hay không là việc của trời. Sao lại đoán trước là sẽ gãy mà chịu đổi cứng ra mềm ?
Ngô Tử Văn là một chàng áo vải. Vì cứng cỏi mà dám đốt cháy đền tà, chống lại yêu ma, làm một việc hon cả thần và người. Bởi thế được nổi tiếng và được giữ chức vị ở Minh ti, thật là xứng đáng. Vậy kẻ sĩ, không nên kiêng sợ sự cứng cỏi.
Theo bản dịch của TRÚC KHÊ NGÔ VĂN TRIỆN (Truyền kì mạn lục, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1957.
Có tham khảo một số bản dịch khác.)
HƯỚNG DẪN HỌC BÀI
Theo anh (chị), việc làm của nhân vật Ngô Tử Văn có ý nghĩa gì ?
Thể hiện quan điểm và thái độ của người trí thức muốn đả phá sự mê tín thần linh của quần chúng bình dân.
Thể hiện sự khảng khái, chính trực và dũng cảm muốn vì dân trừ hại. c. Thể hiện tính hiếu thắng của người trẻ tuổi.
Thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ qua việc diệt trừ hồn tên giặc xâm lược hung bạo, bảo vệ Thổ thần nước Việt, người từng có công giúp Lí Nam Đế chống ngoại xâm.
Ý kiến khác.
Giải thích lí do lựa chọn của anh (chị).
Theo anh (chị), chi tiết Diêm Vưong xử kiện ở âm phủ nói lên điều gì ?
Thể hiện niềm tin của con người thời trung đại: bên cạnh cõi trần còn có một thế giới khác là âm phủ, noi con người sau khi chết sẽ phải đến để nhận sự phán xét và thưởng phạt về những việc làm của mình khi còn sống.
Thể hiện khát vọng công lí chưa thực hiện được trong cuộc sống trần thế của người xưa.
c. Nhằm đẩy xung đột kịch tính của truyện đến cao trào để nhân vật chính - Ngô Tử Văn - có dịp bộc lộ bản lĩnh, khí phách của mình.
Có ý nghĩa khuyên răn, giáo dục con người nên sống và hành động thế nào cho đúng đắn, họp lẽ phải, tránh làm điều ác.
Ý kiến khấc.
Giải thích lí do lựa chọn của anh (chị).
Chi tiết Ngô Tử Văn được nhậm chức phán sự ở đền Tản Viên có ý nghĩa gì ?
Phân tích nghệ thuật kể chuyện đặc sắc và hấp dẫn của Nguyễn Dữ.
Nêu chủ đề của truyện.
	GHI NHỚ	
• Chuyện chức phán sự đền Tản Viên đề cao tinh thần khảng khái, cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác trừ hại cho dân của Ngô Tử Văn, một người trí thức nước Việt ; đồng thời thể hiện niềm tin công lí, chính nghĩa nhất định sẽ chiến thắng gian tà.
• Bằng nghệ thuật kế chuyện lôi cuốn, nhân vật được xây dựng sắc nét, tình tiết và diễn biến truyện giàu kịch tính, truyện đã để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc.
LUYỆN TẬP
Nếu được yêu cầu viết đoạn kết của truyện, anh (chị) sẽ đồng tình vói cách kết thúc như đã có hay sẽ chọn một cách kết thúc khác ? Trình bày và giải thích ý kiến của mình.
Tóm tắt truyện (không quá 20 dòng).