Soạn Văn 7: Bài ca nhà tranh bị gió thu phá (Mao ốc vị thu phong sở phá ca)

  • Bài ca nhà tranh bị gió thu phá (Mao ốc vị thu phong sở phá ca) trang 1
  • Bài ca nhà tranh bị gió thu phá (Mao ốc vị thu phong sở phá ca) trang 2
  • Bài ca nhà tranh bị gió thu phá (Mao ốc vị thu phong sở phá ca) trang 3
  • Bài ca nhà tranh bị gió thu phá (Mao ốc vị thu phong sở phá ca) trang 4
Bài 11
Bài ca nhà tranh bị gió thu phá
Từ đồng âm
Các yếu tố tự sự, miêu tả trong văn biểu cảm
BÀI CA NHÀ TRANH BỊ GIÓ THU PHÁ
(Mao ốc vị thu phong sở phá ca)
(Đọc thêm)
Đỗ Phủ
KIẾN THỨC Cơ BẢN
Về tác giả: Đỗ Phủ {712 - 770) là nhà thơ nổi tiếng đời Đường của Trung Quốc tự là Tử Mĩ, hiệu Thiếu Lăng, quê ở Hà Nam. Đỗ Phủ gần như suốt đời sống trong khổ đau, bệnh tật.
Năm 755 loạn An Lộc Sơn, ông từ quan đưa gia đình về Tây Nam, Tứ Xuyên. Năm 760 được bạn bè và người thân giúp đỡ, Đỗ Phủ dựng một nhà tranh bền cạnh khe Cán Hoa, vừa ở được mấy tháng thì căn nhà bị gió phá nát.
Về bài thơ: kết hợp nhiều phương thức biểu đạt, Đỗ Phủ đã thể hiện một cách sinh động nỗi khổ của bản thân mình vì căn nhà tranh bị gió thu phá nát. Vượt lên trên bất hạnh cá nhân, nhà thơ đã bộc lộ khát vọng cao cả: ước mong có được ngôi nhà vững chắc ngàn vạn gian để che chở cho tất cả mọi người nghèo trong thiền hạ.
Bút pháp hiện thực và tinh thần nhân đạo cao cả của bài thơ đã ảnh hưởng khá sâu rộng đến thơ ca Trung Quốc đời sau.
HƯỚNG DẪN ĐỌC - HlỂU VĂN BẢN
Câu la. Tìm hiểu và phân tích bô cục của bài thơ.
Bài thơ gồm có 2 phần:
+ Phần đầu (gồm ba đoạn 1, 2, 3) kể và tả về hoàn cảnh và nỗi khổ của tác giả cùng gia đình về căn nhà tranh bị gió thu tốc nát.
Phần này chia làm ba phần nhỏ:
Khổ 1: Tả cảnh gió cuốn mất các lớp tranh của căn nhà.
Khổ 2: Kể việc trẻ con lấy mất tranh.
Khổ 3: Nỗi khổ của tác giả và gia đình trong đêm mưa.
+ Phần sau (khổ còn lại): Ước mơ cao cả của nhà thơ.
Câu lb. Thống kê sô câu của mỗi phần và thử lí giải vì sao có phần dài phần ngắn, phần cuối có sô chữ nhiều hơn các phần khác?
Bài thơ có 3 khổ 5 câu: khổ 1, khổ 2, khổ 4.
Các khổ 1, 2, 3 đại đa số có 7 chữ trong mỗi dòng thơ. Riêng khổ cuối (khổ 4) số chữ lên tới 9, 10 chữ trong mỗi dòng.
Gieo vần: Khổ 2, 3 gieo vần trắc (sức - giật - dược - ức - mực - đặc - sắc - nát - dứt - trót) thể hiện sự ấm ức, dằn vặt, đau xót.
Khổ cuối lại nghiêng về vần bằng (giàu - hoan - bàn) ba vần bằng liên hoàn nhau thể hiện sự vút lên của ước mơ.
Câu 2. Kẻ lại bảng sau và đánh dấu X vào ô mà em cho là hợp lí.
\phương \ thức
\-L- • *
\bieu
đat Phần \
Miêu
tả
Tự
sự
Biểu
cảm
trực
tiếp
Miêu tả kết hợp tự sự
Miêu tả kết hợp biểu cảm
Tự sự kết hợp biểu cảm
Kết hỢp cả 3 phương thức
Phần đầu (3 khổ)
X
X
X
X
X
X
X
Phần sau (khổ cuối
X
X
X
Nhận xét:
Phần đầu (3 khổ 1, 2, 3) sử dụng phương thức biểu đạt.
Phần sau (khổ cuối) chủ yếu dùng phương thức biểu cảm trực tiếp kết hợp miêu tả.
Cáu 3. Những nỗi khổ nào của nhà thơ được đề cập trong bài thơ? Tác giả đã miêu tả và thể hiện sinh động, khúc chiết những nỗi khổ đau đó như thế nào?
Những nỗi khổ đau đó được Đỗ Phủ miêu tả trong bài thơ:
Nỗi khổ vì ngôi nhà bị gió cuốn: cái thì bay sang sông, cái thì treo trên ngọn cây, cái nhào xuống lòng mương tơi tả. Cảnh tượng thật kinh hoàng.
Đỗ Phủ rất nghèo, để có được ngôi nhà tranh ấy phải nhờ vào sự giúp đỡ của những người thân thích và bạn bè nay bị gió cuốn, biết xoay xở làm sao.
Nỗi khổ vì nhân tình thể thái: Hình ảnh thật thương tâm, một bên lũ trẻ đua nhau cướp những tấm tranh chạy đi, một bên ông già chống gậy lọm khọm, miệng gào thét đến khô cháy mà chẳng đòi lại được.
Nỗi khổ phải nằm trong mưa lạnh: Mưa chẳng dứt, nhà bị tốc mái, chăn mền ướt sũng rách nát, còn bị con thơ đạp làm rách thêm, rét lạnh tựa sắt, cả nhà run cầm cập.
— Nỗi khổ vì chiến tranh loạn lạc: Đây mới là nỗi khổ lớn nhất và là nguyên nhân của ba nỗi khổ trên. Vì loạn lạc mà nhà thơ phải phiêu bạt, từ quan, vì loạn lạc mà những đứa trẻ khổ sở túng thiếu phải đi cướp giật của người khác. Và cũng vì loạn lạc mà nhà thơ phải đêm dài ít ngủ, chịu lạnh, chịu đói -> đó cũng là đêm dài của xã hội đen tối.
=> Cách miêu tả của nhà thơ rất sinh động, cụ thể, đồng thời tính hàm súc rất cao, chỉ bằng một vài câu ngắn gọn người đọc đã hình dung được cả cảnh tượng.
Câu 4. Giả sử không có 5 dòng thơ cuối thì ý nghĩa giá trị biểu cảm của bài thơ sẽ giảm đi như thế nào1? Phăn tích tình cảm cao quý của nhà thơ được biểu hiện qua phần cuối.
Nếu không có 5 dòng thơ cuối thì giá trị của bài thơ sẽ giảm đi một nửa. Bài thơ chỉ có giá trị hiện thực mà không có giá trị nhân đạo. Nghĩa là người đọc chỉ thấy được nỗi khổ của nhà thơ mà không thấy được tấm lòng nhân hậu của nhà thơ.
Tình cảm của nhà thơ được thể hiện:
+ Vẻ đẹp của giấc mơ', có nhà rộng muôn gian, che khắp cho thiên hạ
+ Vẻ đẹp của tấm lòng nhân ái: muôn người khác được hân hoan, sung sướng
+ Vẻ đẹp của sự vị tha: nghĩ đến người khác mà không nghĩ đến bản thân mình “Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được”.
HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Câu 1. Đọc diễn cảm hai phần cuối.
Muốn đọc diễn cảm được tốt, phải xác định được giọng đọc và cách ngắt nhịp, cách lên bổng xuông trầm của từng câu một.
Giây lát / gió lặng / mây tối mực
giọng cảm thông,
> đau xót, đọc chậm,
ngắt theo nhịp
Trời thu mịt mù / đêm đen đặc Mền vải lâu năm / lạnh tựa sắt,
Con nằm xấu nết / đạp lót nát Đầu giường nhà dột / chẳng chừa đâu
Dày hạt mưa / mưa / mưa / chẳng dứty
Từ trải cơn loạn / ít ngủ nghế] .
'	, r giọng trầm ngâm, suy tư
Đêm dài ướt át / sao cho trót J
Ước được nhà rộng / muôn ngàn gian,	1 giọng hân hoan,
Che khắp thiên hạ / kể sĩ nghèo / đều hân hoanJ VU1 sướng
giọng sâu lắng, chậm rãi
Gió mưa chẳng núng / vững như bàn thạch!
Than ôi! / Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt > Riêng lều ta nát, / chịu chết rét / cũng được!
Câu 2. Dùng tốỉ đa là hai câu để nêu ý chính của đoạn văn sau đây bàn về “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” của Đỗ Phủ.
Đỗ Phủ không chỉ nói lên nỗi khổ của mình mà còn phanh phui hiện thực đen tối của của xã hội đương thời. Trong khổ đau, tấm lòng của nhà thơ vẫn hướng về dân chúng nghèo khổ, vẫn lo lắng cho thường dân, vì vậy mà tên tuổi nhà thơ sông mãi.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
Nhà thơ không miêu tả sự thông khổ của bản thân một cách cô lập, đơn thuần mà thông qua miêu tả sự thống khổ của bản thân để biểu hiện sự thống khổ của kẻ sĩ nghèo trong thiên hạ, để biểu hiện thảm họa của xã hội, của thời đại.
Hàng trăm, nghìn năm nay, tình cảm lo nước thương dân nồng cháy và lí tưởng cao cả yêu cầu khẩn thiết thay đổi hiện thực đen tối của Đỗ Phủ mãi mãi kích động tâm khảm độc giả và phát huy tác dụng tích cực.
(Hoắc Tùng Lâm, Nguyễn Khắc Phi dịch,
Tư liệu văn học 9, tập hai, NXB Giáo dục, 2002)