SGK Âm Nhạc và Mĩ Thuật 6 - Bài 19. Thường thức mĩ thuật Tranh dân gian Việt Nam

  • Bài 19. Thường thức mĩ thuật Tranh dân gian Việt Nam trang 1
  • Bài 19. Thường thức mĩ thuật Tranh dân gian Việt Nam trang 2
  • Bài 19. Thường thức mĩ thuật Tranh dân gian Việt Nam trang 3
  • Bài 19. Thường thức mĩ thuật Tranh dân gian Việt Nam trang 4
TRANH DÂN GIAN VIỆT NAM
I - VÀI NÉT VỂ TRANH DÂN GIAN
Tranh dân gian là loại tranh được lưu hành rộng rãi trong dân gian, được nhân dân ưa thích. Tranh thường dùng vào việc trang trí đón xuân nên gọi là tranh Tết; tranh để thờ cúng nên gọi là tranh thờ.
Tranh dân gian được sản xuất ở một số địa phương như Đông Hồ (Bắc Ninh), Hàng Trống (Hà Nội), Kim Hoàng (Hà Tây) v.v... Đây là những nơi có truyền thống lâu đời về nghề vẽ, khắc và in tranh.
Tranh Tết nói chung đều mang ý nghĩa chúc tụng, đề tài gần gũi với đời sống của nhân dân lao động như : Gà trôhg ; Gà mái; Lợn nái; Ngũ quả ; Vinh hoa, Phú quý ; Tiến tài, Tiến lộc ; Bà Triệu ; Bịt mắt bắt dê ; Đánh ghen v.v... Tranh thờ phục vụ tín ngưỡng như : Ngũ HỔ; Bà Chúa Thượng Ngàn; ông Hoàng cầm quân v.v...
II - HAI DÒNG TRANH ĐÔNG Hổ VÀ HÀNG TRốNG
1. Tranh Đông Hó
Gọi là tranh Đông Hồ (hay tranh làng Hồ) bởi nó được sản xuất tại làng Đông Hồ thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Tác giả là những “nghệ sĩ nông dân" nên rất hiểu tâm tư, tình cảm cùa người dân lao động. Họ làm tranh trong lúc nông nhàn. Tranh thể hiện cuộc sống muôn màu muôn vẻ và sự liên hệ khăng khít giữa con người với thiên nhiên.
Tranh Đống Hồ được sản xuất hàng loạt bằng những khuôn ván gỗ, khắc và in trên giầy dó quét màu điệp. Mỗi màu là một bản in, nên thường có nhiều người trong một gia đình hay dòng họ cùng tham gia làm tranh.
Một trong những sáng tạo đặc biệt cúa các nghệ nhân Đông Hồ là cách pha chế, sử dụng màu in tranh bằng các nguyên liệu sẵn có và dễ tìm : màu đen lấy từ than lá tre, than rơm ; màu đỏ son lấy từ sỏi đỏ tán mịn ; màu vàng lấy từ cây gỗ vang hay hoa hoè ; màu xanh lấy từ lá chàm ; màu trắng lấy từ vỏ sò tán nhỏ (màu điệp)... Tranh Đông Hồ có đường nét đơn giản, khoẻ và dứt khoát, bao giờ nét đen cũng in sau cùng để định hình các mảng, làm cho tranh đậm đà và sông động.
2. Tranh Hàng Trống
Gọi là tranh Hàng Trống vì xưa kia dòng tranh này xuất hiện được bày bán tại phố Hàng Trống và ở một vài khu phố lân cận. Phố Hàng Trống (nay thuộc quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) vốn từng nổi tiếng về các ngành nghề thủ công mĩ nghệ. Tại đây có những xưởng in và là nơi buôn bán tranh rất sầm uất.
Hình 2. Ngũ Hô’(Tranh Hàng Trống)
Nghệ nhân Hàng Trống chí cần một bản khắc nét in màu đen làm đường viền cho các hình, sau đó trực tiếp tô màu.
Hình 3. Bà Triệu (Tranh Đông Hồ)
Hình 4. Thạch Sanh (Tranh Đông Hồ)
Hình 5. Bịt mắt bắt dê (Tranh Hàng Trống)
Tranh phục vụ cho nhũng đối tượng ở tầng lớp trung lun và thị dân nên đường nét trong tranh thường mảnh mai, trau chuốt và tinh tế. Nghệ thuật tô màu (gọi là cản màu) rất công phu và sáng tạo. Màu thường dùng là các màu phẩm nhuộm nguyên chất, song nhờ độ đậm nhạt của nét bút cản đã tạo được sự hài hoà, lung linh và chiều sâu của bức tranh.
- GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TRANH DÂN GIAN
Tranh dân gian Đông Hồ và Hàng Trống rất chú trọng đến bố cục, đường nét và màu sắc. Đường nét được xem là dáng, màu sắc là Z7?e«, bố cục theo lối ước lệ, thuận mắt. Ngoài ra c/zz? hay nhũng cân thơ vừa là minh hoạ, vừa tạo cho tranh có bố cục ổn định, chặt chẽ.
Tranh Đông Hồ và tranh Hàng Trống là hai dòng tranh dân gian tiêu biểu của Việt Nam. Tranh có vẻ đẹp hài hoà, hình tượng có tính khái quát cao : vừa hư, vừa thực khiến cho người xem thấy gần gũi, yêu thích, ngắm mãi không chán.
CÂU HỞI VÀ BÀI TẬP
Vì sao tranh dân gian thường được dùng vào dịp Tết và thờ cúng ? Em hãy kể về các dòng tranh dân gian-chính.
Đề tài chủ yếu trong tranh dân gian là những đề tài nào ?
Em hãy nói về một bức tranh dân gian mà em đã biết.