SGK Ngữ Văn 7 - Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra (Thiên Trường vãn vọng) (Tự học có hướng dẫn)

  • Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra (Thiên Trường vãn vọng) (Tự học có hướng dẫn) trang 1
  • Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra (Thiên Trường vãn vọng) (Tự học có hướng dẫn) trang 2
  • Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra (Thiên Trường vãn vọng) (Tự học có hướng dẫn) trang 3
  • Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra (Thiên Trường vãn vọng) (Tự học có hướng dẫn) trang 4
  • Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra (Thiên Trường vãn vọng) (Tự học có hướng dẫn) trang 5
BÀI 6
Kết quả cần đạt
cảm nhận đượchồn thơ thắm thiết tình quê của Trần Nhân Tông trong bài Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra và sựhoà nhập giữa tâm hồn Nguyễn Trãi với cảnh trí Côn Sơn trong đoạn thơ trích Bài ca Côn Sơn. Tiếp tục hiểu thể thơ thát ngôn tứ tuyệt và sơ bộ hiểu thêm thể thơ lục bát.
Bước đầu biết sử dụng từ Hán Việt đúng sắc thái biểu cảm; có ý thức tránh lạm dụng từ Hán Việt.
Nắm được đặc điểm của văn bẩn biếu cảm. Biết cách làm bài văn biêu cẩm.
VĂN BẢN
(Tự học có hướng dẫn)
BUỔI CHIÊU ĐÚNG ở
PHỦ THIÊN TRƯỜNG TRÔNG RA
(Thiên Trường vãn vọng)
Phiên âm
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên Bán vô bán hữu tịch dương biên Mục đồng địch lí ngưu quy tận Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Trần Nhân Tông(*))
Dịch nghĩa
Sau thôn trước thôn đều mờ mờ như khói phủ Bên bóng chiều (cảnh vật) nửa như có nửa như không Trong tiếng sáo mục đồng dẫn trâu về hết Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.
(Thiên Trường : tên đất, xem chú thích (★) ở cuối bài, vãn : buổi chiều, vọng: trông. Thôn : làng, xóm, hậu : sau, tiền : trước, đạm : nhạt, tự: tựa như, yên : khói. Bán : nửa, vổ : không, hữu : có, tịch : buổi chiều, ban đêm, dương: ánh sáng mặt trời, biên : bên. Mục: nuôi súc vật, đồng: trẻ con, địch : ống sáo có 7 lỗ, lí: trong, ngưu : trâu, quy: về, tận : hết. Bạch : trắng, lộ : con cò, song: hai cái, một đôi, phi : bay, hạ : xuống, điền : ruộng.)
Dịch thơ
Trước xóm sau thôn tựa khói lồngP^
Bóng chiều man mác có dường không Mục đồng sáo vẳngpì trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
(Ngô Tất Tô' dịch, trong Thơ văn Lí - Trần, tập II,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989)
Chú thích
(★) Trần Nhân Tông (1258 -1308) tên thật là Trần Khâm, con trưởng của Trần Thánh Tông, là một ông vua yêu nước, anh hùng, nổi tiếng khoan hoà, nhân ái, đã cùng vua cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên thắng lợi vẻ vang. Ông theo đạo Phật. Năm 1299, ông về tu ở chùa Yên Tử (thuộc tính Quảng Ninh ngày nay) và trở thành vị tổ thứ nhất của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hoá, một nhà thơ tiêu biểu của thời Trần.
Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra được sáng tác trong dịp Trần Nhân Tông về thăm quê cũ ở Thiên Trường (thuộc rinh Nam Định ngày nay).
ơ thôn quê Bắc Bộ, iúc chiều về, vào mùa thu, thường có lớp sương bao quanh làng xóm.
Mục đồng : trẻ chăn trâu, bò,... Sáo vẳng : tiếng sáo văng vẳng.
ĐỌC - HlỂu VĂN BẢN
về thể thơ, bài Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra giống với bài thơ nào đã học ? Hãy nêu một số đặc điểm của thê’ thơ đó và chỉ rõ những đặc điểm ấy đã thể hiện ở bài thơ này như thế nào.
Cụm từ nửa như có nửa như không (bán vô bán hữu) có nghĩa là gì ? Hãy hình dung quang cảnh được gợi lên ở câu thơ thứ hai này.
Trong bài thơ, cảnh vật được miêu tả vào thời điểm nào trong ngày và gồm những chi tiết gì ? (về ánh sáng, âm thanh, màu sắc và cảnh vật)
Qua các nội dung được miêu tả trong bài thơ, em có những cảm nhận gì trước cảnh tượng buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường và về tâm trạng của tác giả trước cảnh tượng đó ?
* Sau khi hiểu được giá trị của bài thơ, em có thêm suy nghĩ gì khi nhớ rằng tác giả là một ông vua chứ không phải là một người dân quê ? Từ đó, em có thê nói gì nữa về thời nhà Trần trong lịch sử nước ta ?
Ghi nhớ
cảnh tượng buổi chiều ở phủ Thiên Trường là cảnh tượng vùng quê trầm lặng mà không đìu hiu. ơ đây vẫn ánh lên sự sống con người trong sựhoà hợp với cảnh vật thiên nhiên một cách nên thơ, chứng tỏ tác giả là t con người tuy có địa vị tối cao nhưng tâm hồn vẫn gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã.
LUYỆN TẬP
Từ việc đọc - hiểu hai câu thơ cuối, bằng trí tưởng tượng, viết một đoạn văn khoảng năm, sáu dòng để tả cảnh mục đồng thổi sáo dẫn trâu về nhà khi chiều xuống. (Gợi ý: Xem tranh minh hoạ.)
ĐỌC THÊM
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn (à)
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.
Gác mái ngư ôn^ về viễn phô' (è)
Gõ sừng mục tử lại cô ihôn(e\
(Bà Huyện Thanh Quan, Chiều hôm nhớ nhà )
Hoàng hôn : khoảng thời gian mặt ười mới lặn, ánh sáng yếu ớt và mờ dần.
Ngư ông: người đàn ông làm nghề đánh cá.
Viễn phô':.bêh xa (viễn : xa ; phô': bến sông).
Mục tử: cùng nghĩa với mục đồng.
Cô thôn : làng quê hẻo lánh (cổ : lẻ loi; thôn : làng, xóm).
Trông bến nam bãi che mặt nước Cỏ biếc um, dầu mướt màu xanh.
Nhà thôn may xóm chông chênh Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm.
(Đoàn Thị Điểm (?) dịch, Chinh phụ ngâm khúc)
Từ cung điện nhà vua qua dinh thự các quan tới làng mạc nông dân, chưa có những đường hào ngăn cách quá ngặt nghèo như sau này. Chưa có một "bệ rồng" xa tham và lộng lẫy, chưa có những thành quách cao dày, những hào luỹ sâu thẳm lởm chởm cờ xí và gươm giáo, chưa có những kiến trúc nguy nga, những luật lệ gang sắt với một kỉ cương trật tự chặt chẽ. Từ cung điện ở phủ Thiên Trường, vua vui lòng lắng nghe tiếng sáo của các em bé chăn trâu đi dọc theo đường làng, bên bờ ruộng, nơi hai cái cò trắng vừa là là hạ xuống :
,	Mục đồng địch lí ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Đặng Thai Mai, Mâỳ điều tâm đắc trong khi đọc lại văn học
của một thời đại, trong Đặng Thai Mai toàn tập, tập 3,
NXB Văn học, Hà Nội, 1998)