SGK Ngữ Văn 7 - Đặc điểm của văn bản biểu cảm

  • Đặc điểm của văn bản biểu cảm trang 1
  • Đặc điểm của văn bản biểu cảm trang 2
  • Đặc điểm của văn bản biểu cảm trang 3
  • Đặc điểm của văn bản biểu cảm trang 4
ĐẶC ĐIỂM CỦA VẦN BẢN BlỂu CẢM
I - TÌM HIỂU ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN BAN BlỂu CAM
Đọc bài văn sau và trẳ lời câu hỏi
TẤM GƯƠNG
Tấm gương là người bạn chân thật suốt một đời mình, không bao giờ biết xu nịnh ai, dù đó là kẻ vương giả uy quyền hay giàu sang hãnh tiến. Dù gương có tan xương nát thịt thì vẫn cứ nguyên tấm lòng ngay thẳng trong sạch như từ lúc mẹ cha sinh ra nó.
Nếu ai có bộ mặt không được xinh đẹp thì gương không bao giờ nói dối, nịnh xằng là xinh đẹp. Nếu ai mặt nhọ, gương nhắc nhở ngay. Nếu ai buồn phiền cau có thì gương cũng buồn phiền caucó theo như để an ủi, sẻ chia cho người đỡ buồn phiền sầu khổ.
Là người, ai dám tự bảo mình là trong sáng suốt đời như tấm gương kia. Thiếu gì kẻ ác độc, nịnh hót, hớt lẻo, dối trá, có kẻ còn tham lam mà bảo trắng là đen, gọi xấu là tốt đấy sao.
Không một ai mà không soi gương, từ già đến trẻ, từ đàn ông đến đàn bà. Soi gương nhiều nhất có lẽ là các chị chúng ta, những cô gái càng xinh đẹp thì càng thích soi gương.
Không hiểu ông Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi(a) có lúc nào soi gương để buồn phiền cho gương mặt xâ'u xí của mình, đê’ rồi làm ra bài phú Hoa sen giếng ngọc nổi tiếng bao đời. Anh Trương Ch/b) nữa, anh ngồi trên con thuyền lơ lửng mặt sông, có soi vào dòng nước đê tủi cho khuôn mặt mình, nên đành gửi lòng vào tiếng hát cho say đắm lòng cô gái cấm cung và bao người khác nữa... thành câu chuyện đau buồn.
Có một gương mặt đẹp soi vào gương quả là hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc càng trọn vẹn hơn nếu có một tâm hồn đẹp để mỗi khi soi vào tấm gương lương tâm sâu thẩm mà lòng không hổ thẹn.
I
Còn tấm gương bằng thuỷ tinh tráng bạc, nó vẫn là người bạn trung thực, chân thành, thẳng thắn, không hề nói dối, cũng không bao giờ biết nịnh hót hay độc ác với bất cứ ai.
(Theo Băng Sơn, u tôi)
Mạc Đỉnh Chi: Trạng nguyên đời Trần, thế kỉ XIV, làm quan to, khí tiết cứng cỏi, giỏi ling đốì.
Trương Chi: nhân vật truyện cổ tích. Trương Chi là chàng trai lái đò, người xâu xí nhưng có tiếng hát hay làm cô con gái quan Thừa tướng say đắm. Cô gái thây anh. xâ'u thì thát vọng, còn anh thây cô thì say mê. Trương Chi không được yêu lại, đau khổ rồi chết, hồn nhập vào cây gỗ bạch đàn. Thừa tướng mua gỗ về tiện làm bộ chén trà. Mỗi lần rót nước vào chén thì hiện lên hình bóng anh lái đò. Mị Nương nhìn thây, nhớ người cũ, rớt nước mắt vào chén, chiếc chén tan thành nước.
Câu hỏi:
Bài văn Tấm gương biểu đạt tình cảm gì ?
Đê’ biểu đạt tình cảm đó, tác giả bài văn đã làm như thế nào ?
(Gợiý: Việc đem tâm gương mà ví với người bạn trung thực để ca ngợi phẩm chát trung thực có ý nghĩa như thế nào đô'i với bài văn này ?)
Bố cục bài văn gồm mấy phần ? Phần MỞ bài và Kết bài có quan hệ với nhau như thế nào ? Phần Thân bài đã nêu lên những ý gì ? Những ý đó liên quan tới chủ đề bài văn như thế nào ?
Tình cảm và sự đánh giá của tác giả trong bài có rõ ràng, chân thực không ? Điều đó có ý nghĩa như thế nào đốì với giá trị của bài văn ?
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi
Mẹ ơi! Con khổ quá mẹ ơi! Sao mẹ đi lâu thế? Mãi không về! Người ta đánh con vì con dám cướp lại đồ chơi của con mà con người ta giằng lâỳ. Người ta lại còn chửi con, chửi cả mẹ nữa ! Mẹ xa con, mẹ có biết không ?
(Nguyên Hồng, Những ngày thơ ấu)
Câu hỏi :
Đoạn văn biểu hiện tình cảm gì ? Tình cảm ở đầy được biểu hiện trực tiếp hay gián tiếp ? Em dựa vào dẫu hiệu nào đê’ đưa ra nhận xét của mình ?
Ghỉ nhớ
Mỗi bài văn biểu cảm tập trung biểu đạt một tình cảm chả yếu.
Đểbiểu đạt tình cẩm ấy, người viết có thểchọn một hình ảnh có ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng (là một đồ vật, loài cầy hay một hiện tượng nào đó) để gửi gắm tình cảm, tư tưởng, hoặc biêu đạt bằng cách thổ lộ trực tiếp những nỗi niềm, cảm xúc trong lòng.
Bài văn biểu cảm thường có bố cục ba phần như mọi bầi văn khác.
Tình cảm trong bài phải rõ ràng, trong sáng, chân thực thì bài văn biểu cẩm mới có giá trị.
II - LUYỆN TẬP
Đọc bài văn sau và trả lời câu hổi.
HOA HỌC TRÒ
Phượng cứ nở. Phượng cứ rơi. Bao giờ cũng có hoa phượng rơi, bao giờ cũng có hoa phượng nở. Nghỉ hè đã đến. Học sinh sửa soạn về nhà. Nhà chưa về, cái vui gia đình đâu chửa thấy, chỉ thấy xa trường, rời bạn, buồn xiết bao ! Những cuộc tình duyên giữa bạn bè, đến lúc rẽ chia, cũng rẽ chia dưới màu hoa phượng; dù hữu tâm, dù vô tình, người nào cũng có sắc hoa phượng nằm ở trong hồn. Phượng xui ta nhớ cái gì đâu. Nhớ người sắp xa, còn đứng trước mặt... Nhớ một trưa hè gà gáy khan... Nhớ một thành xưa son uể oải...
... Thôi học trò đã về hết, hoa phượng ở lại một mình. Phượng đứng canh gác nhà trường, sân trường. Hè đang thịnh, mọi nơi đều buồn bã, trường ngủ, cây cối cũng ngủ. Chỉ có hoa phượng thức để làm vui cho cảnh trường. Hoa phượng thức, nhung thỉnh thoảng cũng mệt nhọc, muốn lim dim. Gió qua, hoa giật mình, một cơn hoa rụng.
Cứ như thế, hoa - học - trò thả những cánh son xuống cỏ, đếm từng giây phút xa bạn học sinh ! Hoa phượng rơi, rơi... Hoa phượng mưa. Hoa phượng khóc. Trường tẻ ngắt, không tiếng trống, không tiếng người. Hoa phượng mơ, hoa phượng nhớ. Ba tháng trời đằng đẵng. Hoa phượng đẹp với ai, khi học sinh đã đi cả rồi!
• (Theo Xuân Diệu)
Câu hỏi:
Bài văn thê’ hiện tình cảm gì ? Việc miêu tả hoa phượng đóng vai trò gì trong bài văn biểu cảm này ? Vì sao tác giả gọi hoa phượng là hoa - học - trò ?
Hãy tìm mạch ý của bài văn.
Bài văn này biểu cảm trực tiếp hay gián tiếp ?