SGK Ngữ Văn 7 - Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê (Hồi hương ngẫu thư)

  • Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê (Hồi hương ngẫu thư) trang 1
  • Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê (Hồi hương ngẫu thư) trang 2
  • Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê (Hồi hương ngẫu thư) trang 3
  • Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê (Hồi hương ngẫu thư) trang 4
VĂN BẢN
NGẪU NHIÊN VIẾT NHÂN BUổI MỚI VỂ QUÊ
(Hồi hương ngẫu thư)
Phiên âm
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn : Khách tòng hà xứ lai ?
(Hạ Tri Chương^*))
Dịch nghĩa
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,
Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng.
Trẻ con gặp mặt, không quen biết,
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến ?
(Hồi: trở về, hương: làng, quê hương, ngẫu : tình cờ, ngẫu nhiên, thư: chép, viết, ghi lại. Thiếu: trẻ, tiểu : nhỏ, li: xa, rời, gia : nhà, lão: già, đại: lớn. Âm: tiếng, giọng nói, vô : không, cải : đổi, mâh mao : tóc mai, tồi : hỏng, rơi rụng. Nhi đồng: trẻ con, tương i cùng nhau, kiến : thây, bất: không, thức: biết, quen nhau. Tiếu : cười, vấn : hỏi, khách : khách, người ở nơi khác đến, tòng : từ, hà xứ: nơi nào, lai : tới, đến.)
Dịch thơ
Khi đi trẻ, lúc về già Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào Hỏi rằng : Khách ở chốn nào lại chơi ?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch, trong Thơ Đường, tập I,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Trẻ đi, già trở lại nhà,
Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu.
Gặp nhau mà chẳng biết nhau,
Trẻ cười hỏi: "Khách từ đâu đến làng ?"
(Trần Trọng Sail dịch, trong Thơ Đường, tập I,
Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1966)
Chú thích
(★) Hạ Tri Chương (659 - 744), tự Quý Chân, hiệu Tứ Minh cuồng khách, quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (naỹ thuộc huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ năm 695, sinh sống, học tập và làm quan trên 50 năm ở kinh đô Trường An, rất được Đường Huyền Tông vị nể. Lúc xin từ quan về quê làm đạo sĩ, vua có tặng thơ, thái tử và các quan đều đưa tiễn. Ông là bạn vong niên (bạn chơi với nhau không kể tuổi chênh lệch) của thi hào Lí Bạch, từng gọi Lí Bạch là "trích tiên" (tiên bị đày). Thích uống rượu, tính tình hào phóng, ông còn để lại 20 bài thơ, trong đó hai bài Hồi hương ngẫu thưỉầ nổi tiếng nhất. Bài được chọn để học là bài 1. ĐỌC - HlỂu VĂN BẢN
Qua tiêu đề bài thơ, có thể thấy sự biểu hiện tình quê hương ở bài thơ này có gì độc đáo ?
(Gợi ý: So sánh với tình huống thể hiện tình quê hương trong bài Tữi/ĩ dạ tứ.)
Chứng minh hai câu đầu đã dùng phép đối trong câu (còn gọi là tiểu đối, tự đô'i). Nêu tác dụng của việc dùng phép đôi ấy.
Lưu ý : ơ thơ ngũ ngôn và that ngôn, số chữ cua hai vê đôi nhau trong câu không bằng nhau, tuy vậy, xét về mặt từ loại và cú pháp, vẫn có thê’ đốì rất chỉnh.
Kẻ lại bảng sau vào vở và đánh dấu X vào ô mà em cho là hợp lí:
Phương thức biểu đạt
Tự sự
Miêu tả
Biểu cảm
Biểu cẵm qua tự sự
Biểu cảm qua miêu tả
Câu 1
Câu 2
Sau khi đánh dấu, có thể dùng lời đê’ giải thích thêm ; cũng có thê’ dùng cách giải thích khác không có trong các ô.
Sự biểu hiện của tình quê hương ỏ hai câu trên và hai câu dưới có gì khác nhau về giọng điệu ?
(Gợi ý: Phân tích xem vì sao chỉ có nhi đồng xuất hiện và sự xuất hiện đó cùng tiếng cười, câu hỏi hồn nhiên, thơ ngây của các em có làm cho tác giả vui lên không.)
Ghi nhó
Bài thơ biểu hiện một cách chân thực mà sâu sắc, hóm hỉnh mà ngậm ngùi tình yêu quê h ương thắm thiết của một người sôhg xa quê lâu ngày, trong khoảnh khắc vừa mới dặt chân trở' về quê cũ.
LUYỆN TẬP
Căn cứ vào bản dịch nghĩa bài Hồi hương ngẫu thư và những điều cảm nhận được qua việc học bài thơ, hãy so sánh hai bản dịch thơ của Phạm Sĩ Vĩ và Trần Trọng San.