SGK Ngữ Văn 7 - Phò giá về kinh (Tụng giá hoàn kinh sư)

  • Phò giá về kinh (Tụng giá hoàn kinh sư) trang 1
  • Phò giá về kinh (Tụng giá hoàn kinh sư) trang 2
  • Phò giá về kinh (Tụng giá hoàn kinh sư) trang 3
  • Phò giá về kinh (Tụng giá hoàn kinh sư) trang 4
  • Phò giá về kinh (Tụng giá hoàn kinh sư) trang 5
VĂN BAN
PHÒ GIÁ VỀ KINH (Tụng giá hoàn kỉnh sư)
Phiên âm
Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san. .
(Trần Quang Khải(*))
5-NGỬVẰN 7/1-A
Dịch nghĩa
Cướp giáo giặc ở bến Chương Dương,
Bắt quân Hồ ở cửa Hàm Tử.
Thái bình rồi nên dốic hết sức lực,
Muôn đời vẫn có non sông này.
(Tụng : đi theo sau, giá : nghĩa gốc là buộc ngựa vào xe, nghĩa thường là xe vua đi, tụng giá : đi theo xe nhà vua, hoàn : trở về, kinh: kinh đô, thủ đô xưa, kinh sư: kinh đô một nước có vua. Đoạt: cướp lấy, sáo : giáo (một thứ vũ khí), Chương Dương : địa danh (xem chú thích (1)), độ : bến sông, cầm : bắt, Hồ: từ do người Trung Quốc xưa dùng đê’ chỉ các dân tộc thiểu số và ngoại tộc ở phía bắc với thái độ khinh miệt, ở đây dùng để chỉ giặc Mông - Nguyên, Hầm Tử: địa danh (xem chú thích (2)), quan : cửa ải. Thái bình : rất bình yên, tu : nên, trí: đem hết, dốc hết, lực : sức mạnh (có bản chép : nghỉ nỗ lực, có nghĩa là "nên cố sức"). Vạn : mười ngàn, cổ: xưa, thử: ấy, này, giang: sông, san (vốn đọc là sơrì) : núi.)
Dịch thơ
Chương Dương^ cướp giáo giặc,
Hầm Tử® bắt quân thù.
Thái bỉnh nên gắng sức,
Non nước âỳ ngàn thu.
(Trần Trọng Kim dịch, trong Việt Nam sử lược,
NXB Tân Việt, Hà Nội, 1951)
Chú thích
(★) Trần Quang Khải (1241 - 1294), con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông, được phong Thượng tướng, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chông Mông - Nguyên (1284 - 1285 ; 1287 - 1288), đặc biệt là trong hai trận chiến thắng ở Hàm Tử và Chương Dương. Ông không chỉ là một võ tướng kiệt xuất,
5-NGƯVÂN 7/1-B
mà còn là người có những vần thơ "sâu xa lí thú" (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí).
Bài thơ Phò giá về kinh được làm lúc ông đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long (Hà Nội ngày nay) ngay sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật, có cách gieo vần tương tự như ở thất ngôn tứ tuyệt.
Chương Dương : bến sông nằm ở hữu ngạn sông Hồng, thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Chiến thắng Chương Dương diễn ra vào tháng 6 năm Ât Dậu (1285) do Trần Quang Khải chỉ huy.
Hàm Tử: một địa điểm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trận Hàm Tử diễn ra vào tháng 4 năm Ất Dậu (1285) do Trần Nhật Duật chỉ huy với sự hỗ trợ đắc lực của Trần Quang Khải.
ĐỌC - HlỂu VĂN BẢN
Em hãy căn cứ vào lời giới thiệu sơ lược về thê’ thơ ngũ ngôn tứ tuyệt ở chú thích (★) để nhận dạng thể thơ của bài Tụng giá hoàn kinh sư (bản phiên âm chữ Hán) về số câu, số chữ trong câu, cách hiệp vần.
Nội dung được thê’ hiện trong hai câu đầu và hai câu sau của bài thơ khác nhau ở chỗ nào ? Hãy nhận xét về cách biểu ý và biểu cảm của bài thơ.
Cách biểu ý và biểu cảm của bài Phò giá về kỉnh và bài Sông núi nước Nam có gì giông nhau ?
Ghi nhớ
Với hình thực diễn đạt cô đúc, dồn nén cẩm xúc vào bên trong ý tưởng, bài thơ Phò giá vểkinh đã thể hiện hào khí chiến thắng và khát vọng thái bình thịnh trị của dân tộc ta ở thời đại nhà Trần.
LUYỆN TẬP
Theo em, cách nói giản dị, cô đúc của bài thơ nẩy có tác dụng gì trong việc thê’ hiện hào khí chiếrĩ thắng và khát vọng thái bình của dân tộc ta ở thời đại nhà Trần ?
ĐỌC THÊM
TỨC Sự (a)
Phiên âm
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cô’ điện kim âu.
Dịch nghĩa
Trên nền xã tắc hai lần ngựa đá phải mệt nhọc,
Nhưng núi sông ngàn đời vẫn được đặt vững như âu vàng.
(a) Ngày 17-3 năm Mậu Tí (18 - 4 — 1288), sau chiến thắng Bạch Đằng, triều đình đem các tướng giặc bị bắt làm lễ dâng thắng hận ở Chiêu Lăng (lăng vua Trần Thái Tông). Tại đây, vua Trần Nhân Tông trông thấy chân mây con ngựa đá đều lâm bùn (vì trước đó giặc Nguyên đã phá Chiêu Lăng và định đập bỏ ngựa đi mà chưa kịp), tức cảnh ngâm hai câu thơ ưên. Đầu đề là của những người làm sách về sau đặt.
(Xã : chỗ tế Thần Đất, tắc : chỗ tế Thần Nông, lưỡng : hai, hồi : xoay lại, lao: khó nhọc, thạch : đá, mã: ngựa. Sơn : núi, hà : sông, thiên : ngàn, cổ: xưa, cũ, điện : đặt, kim : vàng,-ầu : cái chậù nhỏ.)
Dịch thơ	.
Xã tắc hai phen chồn ngựa đá,
Non sông nghìn thuở vững ầu vàng