SGK Lịch Sử 9 - Bài 29 - Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973)

  • Bài 29 - Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 1
  • Bài 29 - Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 2
  • Bài 29 - Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 3
  • Bài 29 - Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 4
  • Bài 29 - Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 5
  • Bài 29 - Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 6
  • Bài 29 - Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 7
  • Bài 29 - Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 8
  • Bài 29 - Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 9
  • Bài 29 - Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 10
  • Bài 29 - Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 11
  • Bài 29 - Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 12
  • Bài 29 - Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 - 1973) trang 13
Bài 29
CÁ NƯỚC TRỰC TIÉP CHIÊN ĐẤU CHỐNG Mỉ,
CỨU NƯỚC (1965-1973)
Trong thời kì cả nuớc có chiến tranh, nhân dân ta ở hai miển Nam - Bắc cùng chiến đắu đánh hại hai chiến lược "Chiến tranh cục hộ" ká 'Việt Nam hoá chiến tranh".
Miển Bắc vùa chiến đẩu chống chiến tranh phá hoại, vừa sán xuất, làm nhiệm vụ hđuphuong chi viện cho tiền tuyến miền Nam và nghĩa vụ quốc tế đối với Lào và Cam-pu-chia.
I - CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN Lược
"CHIẾN TRANH cục BỘ" CỦA MĨ (1965 - 1968)
Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ ờ miền Nam
Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mĩ chuyến sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ” - được tiến hành bàng lực lượng quân đội Mi, quân đóng minh và quàn đội Sài Gòn - lúc cao nhất (vào năm 1969) lên gân 1,5 triệu quân.
Dựa vào ưu thế quân sự, với quân số dông, vũ khí hiện dại, hoá lực mạnh, Mĩ vùa mới vào miền Nam dã cho quân mỏ ngay cuộc hành quân "tìm diệt'1 vào căn cứ của quân giải phóng ỏ Vạn Tường (Quàng Ngãi). Tiếp dó, Mĩ mỏ liền hai cuộc phân công chiến lược mùa khô: đông-xuân 1965-1966 và 1966 - 1967 bàng hàng loạt cuộc hành quân "tìm diệt” và "bình định".
- Chiến lược “Chiến tranh cục /?()” và “Chiên tranh đặc biệt” của Mi ở miền Nam có điểm gì giống và khác nhau ?
Chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ
Nhân dàn ta vẫn giành được tháng lợi bàng sức mạnh của cả dàn tộc, của tiến tuyến và hậu phương cùng VỚI ý chi “quyết chiến quyết tháng giặc Mĩ xâm lược”. Mỏ đáu là thắng lợi ờ Vạn Tường (Quảng Ngãi).
Mờ sóng 18-8-1965, Mĩ huy dộng 9 000 quân, 105 xe tăng và xe bọc thép, 100 máy bay lên thẳng và 70 máy bay phàn lực chiến đấu, ó tàu chiến, mả cuộc hành quân vào thôn Vạn Tưòng.
(1) Khí hậu mién Nam có haĩ mùa trong năm : mùa mưa tư thăng 5 đến thăng 10, mùa khó từ thăng 11 đên thăng 4 nàm sau (theo đương lịch).
Sau một ngày chiến đấu, một trung đoàn chủ lục của ta cùng với quân du kích và nhân dân địa phương dã dẩy lùi được cuộc hành quân của dịch, loại khỏi vòng chiến dâu 900 dịch, bán cháy 22 xe tăng và xe bọc thép, hạ 13 máy bay.
Hình 65. Lược đổ trận Vạn Tường (8 - 1965)
Vạn Tường đả mở đáu cao trào “Tìm Mĩ mà đánh, lùng nguỵ mà diệt” trẽn khắp miền Nam.
Sau trận Vạn Tường, kha nàng chiến tháng Mĩ trong chiến lược “Chiến tranh cục bộ” cua quân dãn ta tiếp tục được chứng minh trong hai mùa khô.
Bước vào mùa khô thứ nhất (đông - xuân 1965 - 1966), vói 720 000 quân (trong đó có 220 000 quân Mĩ), địch mò đợt phán công với 5 cuộc hành quân “tìm diệt” lớn nhàm vào hai hương chiến lược chính ở Đóng Nam Bộ và Khu V, với mục tiêu đánh bại chu lực quân giải phóng.
Bước vào mùa khò thứ hai (đông - xuân 1966 - 1967), với lực lượng được tăng lèn hơn 980 000 quân (riêng quân Mĩ và đồng minh chiếm hơn 440 000), Mĩ mờ đợt phản công với ba cuộc hành quân lớn “tìm diệt” và “bình định”, lớn nhất làcuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti đánh vào cãn cú Dương Minh Châu (Bác Tây Ninh), nhàm tiêu diệt quân chủ lục và cơ quan đâu não cúa ta.
Hĩnh 66. Nhân dân Mĩ biểu tinh phàn đối chiến tranh ờ Việt Nam, đòi quân Mĩ rút vê nước (10 - 1967)
Kết quà sau hai mùa khô, trên toàn mién Nam, quân dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 240 000 tên địch, bán rơi và phá huý hơn 2 700 máy bay, phá huỷ hơn 2 200 xe tàng và xe bọc thép, hơn 3 400 ô tô.
ơ háu kháp các vùng nông thôn, đuợc sụ hỗ trọ của lực lượng vũ trang, quần chúng đã đúng lên đấu tranh chống ách khư kẹp của địch, phá từng mảng “ấp chiến lược”. Trong hầu khắp các thành thị, giai cấp cổng nhân, các tầng lớp nhân dân lao động khác, học sinh, sinh viên, Phật tử, binh sĩ Sài Gòn... đấu tranh đòi Mĩ rút vẽ nước, đòi tự do dân chu. Vùng giải phóng được mở rộng, uy tín cúa Mặt trận Dân tộc giải phóng miên Nam được nâng cao trên trường quốc tế.
Hình 67. Đội quân tóc dài đấu tranh đòi đế quổc Mi rút khỏi mién Nam Việt Nam
Đến cuối năm 1967, Mặt trộn Dân tộc giài phóng miền Nam đã có cơ quan thuờng trực ỏ các nuớc xã hội chủ nghĩa và ỏ một sổ nước khác. Cương lĩnh của Mặt trận được 41 nước, 12 tổ chức quốc tế và 5 tổ chức khu vực lên tiếng ủng hộ.
- Quân dân ta ớ miền Nam đã giành được những thắng lợi nào trong những năm đầu chóng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỉ (1965 -1967) ?
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968)
Bước vào xuân 1968, xuất phát từ nhận định so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho ta, đồng thời lợi dụng mâu thuần trong năm bầu cử tổng thống ở Mĩ (1968), ta chủ trương mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miến Nam mà trọng tâm là các đô thị nhầm tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân Mĩ, quân đồng minh, đánh đòn mạnh vào chính quyên và quân đội Sài Gòn, giành chính quyên vé tay nhân dân, buộc Mỉ phải đàm phán và rút quân vẻ nước.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy được mở đầu bàng cuộc tập kích chiến lược của quân chủ lực vào hâu khắp các đô thị trong đêm 30 - rạng sáng 31 -1 - 1968 (Tết Mậu Thân).
Quân dân ta ỏ miền Nam dồng loạt tiến công và nổi dậy ỏ 37 trong tổng số 44 tỉnh, 4 trong số 6 đô thị lớn, 64 trong số 242 quận lị, ỏ háu khắp các "ấp chiến lược", các vùng nông thôn.
Tại Sài Gòn, quân giải phóng tiến công đến tận các vị trí đáu não của địch như toà Đại sú Mỉ, Dinh Độc lập, Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, Đài phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất...
Mặc dù có những tổn thất do thiếu sót trong chì đạo, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy có ý nghĩa to lớn, làm lung lay ý chí xâm lược cùa quân Mĩ, buộc Mĩ phải tuyên bố “phi Mĩ hoá” chiến tranh xâm lược (tức thừa nhận thất bại của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”), chấm dứt không điêu kiện chiến tranh phá hoại mién Bác, chấp nhận đàm phán ở Pa-ri để bàn vê chấm dứt chiến tranh.
Xuân Mậu Thân (1968).
II - MIÊN BÁC VỪA CHIẾN ĐẤU
CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THÚ NHẤT CỦA MĨ, VỪA SẢN XUẤT (1965 - 1968)
- Hãy trình bày diễn biến và ý nghĩa cuộc Tổng tiên cóng và nổi dậy
1. Mĩ tiến hành chiến tranh không quân và hài quân phá hoại miền Bắc
Cuối năm 1964 đâu năm 1965, cùng với việc đầy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam, Mĩ mở rộng chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miên Bác.
Ngày 5 - 8 - 1964, sau khi dụng lên “sự kiện Vịnh Bác Bộ”, Mi cho máy bay ném bom bán phá một sô' nơi ở miền Bác như cửa sông Gianh (Quảng Bình), Vinh - Bến Thuỷ (Nghệ An), Lạch Trường (Thanh Hoá), thị xã Hòn Gai (Quảng Ninh).
Hỉnh 68. Đơn vị hải quân chiến đấu bắn máy bay Mĩ ngày 5 - 8 - 1964
Ngày 7 - 2 - 1965, lấy cớ “trả đũa” việc quân giải phóng mién Nam tiến công doanh trại quân Mi ờ Plây-ku, Mĩ cho máy bay ném bom bán phá thị xã Đổng Hói (Quảng Bình), đảo Cồn cỏ (Vĩnh Linh - Quảng Trị)..., chính thúc gây ra cuộc chiến tranh bàng không quân và hải quân phá hoại miên Bác (lần thú nhất).
Không quân và hài quân Mĩ tập trung ném bom các mục tiêu quân sụ, các dâu mói giao thông, các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, các công trình thuỷ lọi, các khu dông dân... Chúng ném bom cà trưòng học, nhà trẻ, bệnh viện, khu an duỡng, đền, chùa và nhà thò.
- Đế quốc Mĩ đánh phá miền Bác nước ta như thê nào ?
2. Miền Bắc vừa chiên đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sàn xuất
Ngay tù ngày đầu Mĩ mở rộng chiến tranh, miên Bắc đã kịp thời chuyển mọi hoạt động sang thời chiến, thục hiện quân sự hoá toàn dân, đào đáp công sự chiến đấu, hâm hào phòng tránh ; triệt để sơ tán, phân tán nhũng nơi đông dân để tránh thiệt hại vể người và của.
Trong điéu kiện chiến tranh phá hoại, ta chủ trương đầy mạnh kinh tế địa phương, chú trọng phát triển nông nghiệp. Xây dựng kinh tê' thời chiến theo hướng đó sẽ hạn chê' được sự tàn phá của chiến tranh, tăng khả năng đáp ứng yêu câu của cuộc chiến đấu tại chỗ và đời sống của nhân dân từng địa phương.
Hình 69. Tự vệ vùng mỏ Quàng Ninh phối hợp chiến đấu với bộ đội bán máy bay Mi
Trên toàn mién Bác dấy lên phong trào thi đua chống Mi, cứu nước, thể hiện sáng ngời chân lí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Trong hơn bón năm (từ ngày 5 - 8 -1964 đến ngày 1 -11 -1968), miền Bắc bắn rơi, phá huỷ 3 243 máy bay, trong dó có 6 máy bay B52, 3 máy bay Fill; loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn phi công; bắn cháy và bắn chìm 143 tàu chiến. Ngày 1 - 11 -1968, Mĩ tuyên bố ngừng chiến tranh phá hoại miền Bắc.
Trên mạt trận sản xuắt, mién Bác củng lập được những thành tích quan trọng.
Về nông nghiệp, diện tích canh tác được mở rộng, năng suất lao động không ngừng tăng lên, ngày càng có nhiéu hợp tác xã, nhiều địa phương đạt “Ba mục tiêu” (5 tấn thóc, 2 đâu lợn, 1 lao động trên 1 hécta diện tích gieo trồng trong 1 năm). Năm 1965, miên Bắc có 7 huyện, 640 hợp tác xả đạt mục tiêu 5 tấn thóc trên 1 hécta trong hai vụ, đến năm 1967 tăng lên 30 huyện và 2 485 hợp tác xã.
về công nghiệp, năng lực sản xuất ở một số ngành được giữ vững. Các cơ sở công nghiệp lớn đả kịp thời sơ tán, phân tán, sớm đi vào sản xuất, đáp ứng nhu câu thiết yếu nhất cho chiến đấu và đời sống. Công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng phát triển. Mỗi tinh trở thành một đơn vị kinh tê' tương đối hoàn chỉnh.
Giao thông vận tải là một trong những trọng điém bán phá ác hệt của địch, nhưng ta vần bảo đảm giao thông thông suốt, đáp ứng được yêu câu phục vụ chiến đấu, sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.
- Miền Bắc đạt được những thành tích gì trong việc thực hiện nhiệm vụ vừa chiên đấu vừa sán xuất ?
Miền Bắc thực hiện nghĩa vụ hậu phương lớn
Là hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, miền Bác luôn hướng vê mién Nam. Vì miền Nam ruột thịt, miên Bác phấn đấu “Mỗi người làm việc bằng hai". Vì tiền tuyến kêu gọi, hậu phương sản sàng đáp lại “Thóc không thiếu một cân, quân không thiểu một người".
Tuyến đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam mang tên Hổ Chí Minh trên bộ (dọc theo dãy Trường Sơn) và trên biển (dọc theo bờ biển) bát đáu khai thông từ tháng 5 - 1959, đà nối hén hậu phương với tiền tuyến.
Nhờ hai tuyến đường vận chuyển chiến lược trên, qua 4 năm (1965 - 1968), miên Bác đã đưa hơn 300 000 cán bộ, bộ đội vào Nam tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, xây dựng kinh tế, văn hoá tại các vùng giải phóng ; gửi vào miên Nam hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dâu, lương thực, thực phẩm, thuốc men và nhiêu vật dụng khác. Tính chung sức người, sức của từ mién Bác chuyển vào miền Nam sau bốn năm đã tăng gấp 10 lần so với thời kì trước.
Hình 70. Nhùng thửa ruộng vi mién Nam cùa nông dàn xã Hoà Lạc (Kim Sơn, Ninh Binh)
- Hậu phương miền Bắc đã chi viện những gì và bảng cách nào cho tiền tuyến miền Nam đánh Mi ?
- CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC "VIỆT NAM HOÁ CHIẾN TRANH"
VÀ "ĐÔNG DƯƠNG HOÁ CHIẾN TRANH" CỦA MĨ (1969 - 1973)
1. Chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và “Đông Dương hoá chiến tranh” cùa Mĩ
Sau thát bại của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, Mi chuyển sang chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” ở mién Nam và mở rộng chiến tranh ra toàn Đống Dương, thực hiện chiến lược “Đông Dương hoá chiến tranh”.
Chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” được tiến hành bàng lực lượng quân đội Sài Gòn là chủ yếu, có sự phối hợp vẻ hoả lực và không quân Mi và vần do Mĩ chỉ huy bàng hệ thống cố vấn quân sự.
Quân đội Sài Gòn còn được Mi sử dụng như lực lượng xung kích ở Đông Dương trong các cuộc hành quân mở rộng xâm lược Cam-pu-chia (1970), tăng cường chiến tranh ở Lào (1971), thực hiện âm mưu “Dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”.
- Mĩ thực hiện ám mưu và thù đoạn gì trong vịệc tiến hành chiến lược
“Việt Nam hoá chiến tranh?’ (1969 • 1973) ?
2. Chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và “Đông Dương hoá chiến tranh” của Mĩ
Sự ra đời của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miên Nam Việt Nam ngày 6 - 6 - 1969 là tháng lợi chính trị mở đâu giai đoạn chống chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”. Vừa ra đời, Chính phũ Cách mạng lâm thời đã được 23 nước công nhận, trong đó có 21 nước đặt quan hệ ngoại giao.
Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của nhân dân ta ở hai miên và cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miên Bác đang trên đà tháng lợi, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời ngày 2 - 9 - 1969. Đó là một tổn thất lớn đối với dân tộc ta và cách mạng nước ta.
Trước khi đi xa, Chủ tịch Hổ Chi Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một bản Di chúc lịch sử. Thực hiện Di chúc cùa Chủ tịch Hổ Chí Minh, nhân dân ta ở hai miên ra sức đầy mạnh kháng chiến chống Mĩ, cứu nước.
Trong hai năm 1970- 1971, nhân dân ta cùng với nhãn dân hai nước Cam-pu-chia và Lào đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trên mặt trận quân sự và chính trị.
Trong hai ngày 24 và 25 - 4 - 1970, Hội nghị cấp cao ba nước Việt Nam - Lào - Cam-pu-chla họp để biểu thị quyết tâm của nhân dân ba nước đoàn kết chiến đấu, chống đế quốc Mi mở rộng chiến tranh ra toàn Đóng Dương.
Từ ngày 30 - 4 đến ngày 30 - 6 - 1970, quân đội Việt Nam có sự phối hợp của quân dân Cam-pu-chia, đã đập tan cuộc hành quân xâm lược Cam-pu-chia của 10 vạn quân Mĩ và quân đội Sài Gòn, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn với 4,5 triệu dân.
Từ ngày 12-2 đến ngày 23 -3 - 1971, quân đội Việt Nam có sự phối hợp của quân dân Lào đã đập tan cuộc hành quân mang tên “Lam Sơn - 719” nhàm chiếm giữ Đường 9 - Nam Lào của 4,5 vạn quân Mĩ và quân đội Sài Gòn, quét hết quân Mĩ - quân đội Sài Gòn khỏi Đường 9 - Nam Lào, giữ vững hành lang chiến lược của cách mạng Đòng Dương.
Tháng lợi trên mặt trận quân sự đã hỗ trợ và thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị, chống “bình định”.
ơ khắp các thành thị, phong trào cùa các tâng lớp nhân dân diẻn ra liên tục. Đặc biệt ỏ Huế, Đà Nâng, Sài Gòn, phõng trào học sinh, sinh viên rầm rộ đã thu hút đông đảo giới trẻ tham gia.
Tại các vùng nông thôn, đổng bàng, rừng núi, ven thị, đéu có phong trào của quán chúng nổi dậy chổng “bình định”, phá “ấp chiến lược” của địch.
Nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia đã giành được những tháng lợi chung nào trên các mặt trận quán sự và chính trị trong chóng chiên lược “Vìệt Nam hoá chiên tranh” (1969 -1973) ?
Cuộc Tiến công chiến lược năm 1972
Bước vào năm 1972, từ ngày 30-3 quân ta mở cuộc tiến công chiến lược đánh
vào Quảng Trị, lấy Quảng Trị làm hướng tiến công chủ yếu, rồi phát triển rộng ra kháp chiến trường miến Nam, kéo dài trong năm 1972.
Quân ta tiến công địch với cường độ mạnh, quy mô lớn, trên hâu kháp các địa bàn chiến lược quan trọng. Chỉ trong thời gian ngán (đến cuối tháng 6 - 1972), quân ta chọc thủng ba phòng tuyến mạnh nhất của địch là Quảng Trị, Tây Nguyên, Đồng Nam Bộ, loại khỏi vòng chiến đấu hon 20 vạn địch, giải phóng những vùng đất đai rộng lớn và đông dân.
Cuộc Tiến công chiến lược năm 1972 đã giáng đòn nặng né vào chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, buộc Mĩ tuyên bố “Mĩ hoá” trỏ lại chiến tranh xâm lược, thừa nhận sự thất bại của chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”.
Cuộc Tiến công chiến lược năm 1972 đã diễn ra như thè nào ■? Ỷ nghĩa lịch sử cùa cuộc tiên công đó ?
- MIÊN BẮC KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - VĂN HOÁ, CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THÚ HAI CỦA MĨ (1969 - 1973)
Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế - văn hoá
Trên khắp miền Bắc dấy lên phong trào thi đua học tập, công tác, lao động sản
xuất, nhàm trước hết khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá.
về nông nghiệp, ta có một sô' chủ trương khuyến khích sản xuất. Chăn nuôi được đưa lên thành ngành chính. Các hợp tác xã tích cực áp dụng tiến bộ khoa học - kĩ thuật và nhiều biện pháp thâm canh tăng vụ. Nhờ đó, nhiều hợp tác xã đạt được mục tiêu 5 tấn thóc, một số hợp tác xà đạt từ 6 đến 7 tấn thóc trên 1 hécta gieo trổng. Sản lượng lương thực năm 1970 tăng hơn 60 vạn tấn so với năm 1968.
Về công nghiệp, nhiều cơ sở công nghiệp trung ương và địa phương bị tàn phá được khôi phục nhanh chóng. Nhiêu công trình đang làm dở được ưu tiên đầu tư xây dựng tiếp, đưa vào hoạt động. Nhà máy thuỷ điện Thác Bà (Yên Bái) là nhà máy thuỷ điện đâu tiên của ta được gấp rút hoàn thành và bát đâu phát điện từ tháng 10 - 1971. Một số ngành công nghiệp quan trọng như điện, than, cơ khí, vật liệu xây dựng... đéu có bước phát triển. Giá trị sản lượng công nghiệp năm 1971 tăng 142% so với năm 1968.
Hệ thống giao thông vận tài, nhất là các tuyến giao thông chiến lược, bị phá hoại nặng né được khấn trương khôi phục.
Vãn hoá, giáo dục, y tê' cũng nhanh chóng được khôi phục và phát triển. Đời sống nhân dân ổn định. Một số khó khăn do sai lâm khuyết điểm của ta trong chỉ đạo, quản lí kinh tế và xã hội bước đáu được khác phục.
- Miền Bác đạt được những thành tựu gì trong việc thực hiện nhiệm vụ khôi phục và phát triền kinh tế, văn hoá ?
Miền Bắc vừa chiến đấu chông chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương
Ngày 6 - 4 - 1972, Mỉ cho máy bay ném bom bán phá một số nơi từ Thanh Hoá vào Quảng Bình. Ngày 16 - 4 - 1972, Ních-Xơn (Nixon) tuyên bố chính thức cuộc chiến tranh bàng không quân và hải quân phá hoại miên Bác (lân thứ hai) ; đến ngày 9 - 5 - 1972, tuyên bố phong toả cảng Hải Phòng cùng các cửa sông, luồng lạch, vùng biển miền Bác nước ta.
Nhờ được chuẩn bị trước và với tư thê' luôn sản sàng chiến đấu, miến Bắc đã có thể chủ động, kịp thời chống trả địch ngay từ trận đâu.
Trong điều kiện chiến tranh ác hệt, các hoạt động sản xuất, xây dựng ở miên Bác vần khống bị ngừng trệ, giao thông vận tải bảo đảm thông suốt, các mặt hoạt động khác như văn hoá, giáo dục, y tế được duy trì và phát triển.
Gán hai tháng sau khi tuyên bố ngừng ném bom bán phá miền Bác từ vi tuyến 20 trờ ra, ngày 14 - 12 - 1972, Ních-Xơn phê chuần kế hoạch mở cuộc tập kích không quân bàng máy bay B52 vào Hà Nội và Hải Phòng, bát đầu từ chiêu tối 18 đến hết ngày 29 - 12 - 1972.
Quân dân ta ơ mién Bác đã đánh trả địch những đòn đích đáng từ trận đâu và đà đánh bại hoàn toàn cuộc tập kích bàng không quân của Mĩ, làm nên trận “Điện Biên Phù trên không”.
“Điện Biên Phù trên không” là trận tháng quyết định của ta, đà buộc Mĩ phải trở lại Hội nghị Pa-ri và kí Hiệp định Pa-ri vé chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam (27 - 1 - 1973).
- Quàn dân miền Bác đã giành được những thắng lợi gi trong trận chiên đấu chống cuộc tập kích không quân bàng máy bay B52 cuối năm 1972 của Mĩ ?
- HIỆP ĐỊNH PA-RINẢM 1973 VÊ CHẤM DỨT CHIẾN TRANH Ỏ VIỆT NAM
Cuộc thưong lượng chính thức tại Pa-ri, họp ngày 13 - 5 - 1968 giữa hai bên - đại diện Chinh phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đại diện Chính phù Hoa Kì; và từ ngày 25 - 1 - 1969, giữa bốn bên là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mặt trận Dân tộc giái phóng miến Nam Việt Nam (sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miên Nam Việt Nam), Hoa Kì và Việt Nam Cộng hoà (Chính quyên Sài Gòn).
Lập trường bốn bên, mà thực chất là hai bên Việt Nam và Hoa Kì, rất xa nhau, mâu thuần nhau, khiến cho cuộc đấu tranh diễn ra gay gát trên bàn thương lượng.
Lập trường của phía Việt Nam là đòi rút hết quản Mỉ và quân đồng minh khỏi miẻn Nam, đòi họ tôn trọng các quyên dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và quyến tự quyết của nhân dân mién Nam Việt Nam.
Lập trường của phía Mĩ thì ngược lại, đòi quân đội miền Bác cũng phải rút khỏi miên Nam, từ chối kí dự thảo Hiệp định do phía Việt Nam đưa ra (10 - 1972), để mở cuộc tập kích không quân bàng máy bay B52 vào Hà Nội - Hải Phòng trong 12 ngày đêm cuối năm 1972, với ý đô buộc phía Việt Nam kí dự thảo Hiệp định do Mĩ đưa ra.
Nhưng Mĩ đả thất bại trong cuộc tập kích không quân bàng máy bay B52.và buộc phải trở lại kí dự thảo Hiệp định Pa-ri do ta đưa ra trước đó.
Hiệp định Pa-ri vé chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam được kí chính thức ngày 27 - 1 - 1973 giữa bốn Bộ trưởng đại diện cho các chính phủ tham dự Hội nghị tại Pa-ri và bắt đáu có hiệu lực từ ngày kí chính thức.
Nội dung Hiệp định bao gồm những điều khoản cơ bán sau :
- Hoa Kì và các nuớc cam kết tôn trọng độc lộp, chủ quyền, thóng nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Hoa Kì rút hết quân dội của mình và quân đồng minh, huỷ bỏ các căn cứ quân sự Mĩ, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.
Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tụ do, không có sự can thiệp của nước ngoài.
Các bên thừa nhộn thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị.
Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trá cho nhau tù binh và dân thường bị bắt.
Hoa Kì cam kết góp phần vào việc hàn gán vết thương chiến tranh ỏ Việt Nam và Đông Dương.
Hiệp định Pa-ri vé Việt Nam (được Hội nghị 12 nước họp ngày 2 - 3 - 1973 tại Pa-ri công nhận vé mặt pháp lí quớc tế) là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của quân dân ta ở hai miên đất nước. Với Hiệp định Pa-ri, Mĩ phải công nhận các quyên dân tộc cơ bản của nhân dân ta, phải rút hết quân vẻ nước. Đó là tháng lợl lịch sử quan trọng, tạo thời cơ thuận lợi đé nhân dân ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Hiệp định Pa-ri năm 1973 về chăm dứt chiến tranh ở Việt Nam được kí kết trong hoàn cánh như thê nào ?
Nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sứ cùa Hiệp định.
CÂU HÓI VÀ BÀI TẬP
Chiến lược "Chiến tranh cục bộ" (1965 - 1968) và chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" (1969 - 1973) của Mĩ ở miền Nam Việt Nam có điểm gì giống và khác nhau ?
Đế quốc Mĩ đã dùng những thủ đoạn gì nhằm phá vỡ liên minh đoàn kết chiến đấu giữa ba dân tộc Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia từ nãm 1969 đến năm 1973 ? Kết quả ra sao ?
Lập bảng niên đại và sự kiện về thắng lợi chung của nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia trên các mặt trận quân sự và chính trị từ năm 1969 đến năm 1973.