Giải Lịch Sử lớp 10 Bài 36: Tình hình văn hóa, tư tưởng thế kỉ XVI - đầu thế kỉ XVIII

  • Bài 36: Tình hình văn hóa, tư tưởng thế kỉ XVI - đầu thế kỉ XVIII trang 1
  • Bài 36: Tình hình văn hóa, tư tưởng thế kỉ XVI - đầu thế kỉ XVIII trang 2
  • Bài 36: Tình hình văn hóa, tư tưởng thế kỉ XVI - đầu thế kỉ XVIII trang 3
Bài 36
TÌNH HÌNH VĂN HOÁ, Tư TƯỞNG
THÉ KỈ XVI - ĐÀU THÉ KỈ XVIII
Tư tưởng, tôn giáo, tín ngưởng
Câu hỏi: Tinh hình tư tưởng, tôn giáo, tín ngưỡng, chữ quốc ngữ thế kỉ XVI đến đầu thế kỉ XVIII như thế nào ?
Hướng dẫn trả lời:
Nho giáo: nhìn chung vẫn còn giữ được địa vị thống trị trong xã hội.
Phật giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian: vốn bị nhà nước Lê sơ hạn chế, thậm chí cấm đoán, thì bây giờ lại có điều kiện phục hồi và phát triển. Nhiều chùa chiền, đền miếu, am, quán được khôi phục hoặc được xây dựng mói ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài, trong đó không ít là do sự khuyến khích và cung tiến của vua chúa, phi tần và gia đình quan lại.
Thiên Chúa: Từ năm 1533, một giáo sĩ đạo Thiên Chúa (đạo Ki-tô) vào truyền đạo ở khu vực duyên hải tỉnh Nam Định, nhưng phải đến thế kỉ XVII, việc truyền bá đạo Thiên Chúa mới thực sự được đẩy mạnh. Lúc đầu cả chúa Nguyễn và chúa Trịnh đều tỏ ra thân thiện với các nhà truyền giáo, nhưng dần dần chúa Trịnh và chúa Nguyễn đều thi hành chính sách cấm đạo.
Chữ Quốc ngữ: Trong quá trình phát triền của dân tộc, tiếng Việt ngày càng phong phú và trong sáng. Trên nền tảng đó, các giáo sĩ phương Tây vào nước ta truyền đạo đã học tiếng Việt để giảng đạo và dùng chữ cái La-tinh ghi âm tiếng Việt. Cho đến giữa thế ki XVII, vói sự xuất hiện cùa cuốn từ điển Việt - Bồ - La- tinh và cuốn Giáo lí cương yếu bằng tiếng Việt, có thể coi chữ Quốc ngữ đã ra đời. Tuy nhiên, phải vài thế kỉ .sau đó, mãi đến đầu thế kì XX, chữ Quốc ngữ mới chính thức trở thành chữ viết của dân tộc Việt Nam.
Câu hỏi: Hãy nêu những nét cơ bản về sự thăng trầm của các hệ tư tưởng và tôn giáo ở Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII?
Hướng dẫn trả lời:
Nho giáo: Cùng với sự sụp đổ của nhà nước trung ương tập quyền Lê sơ, sự phát triển của kinh tế hàng hoá, .là sự mất dần hiệu lực và vị trí độc tôn của Nho giáo. Tuy nhiên, Nho giáo nhìn chung vẫn còn giữ được địa vị thống trị trong xã hội, nhất là trong giáo dục và khoa cử.
Phật giáo, Đạo giáo và các hình thức tín ngưỡng dân gian: Trước đây bị nhà nước Lê sơ hạn chế, thậm chí cấm đoán, thì bây giờ lại có điều kiện phục hồi và phát triển. Nhiều chùa chiền, đền miếu, am, quán được khôi phục hoặc được xây dựng ở cả Đàng Trong và Đàrig Ngoài.
Thiên Chúa giáo: Đầu thế kỉ XVII, việc truyền bá Thiên Chúa giáo vào nước ta được đẩy mạnh. Lúc đầu được chúa Nguyễn và chúa Trịnh ủng hộ, nhưng dần dần chúa Nguyễn và chúa Trịnh thực hiện chính sách cấm đạo. Tuy vậy, cho đến thập niên 70 của thế kỉ XVII, số giáo dân ở Đàng Trong và Đàng Ngoài vẫn tăng lên.
Giáo dục và khoa củ'
Câu hỏi: Những biểu hiện về giáo dục và khoa cử ở Đàng Ngoài và đàng Trong.
Hướng dẫn trả lời:
Ỏ Đàng Ngoài:
Giáo dục và khoa cù' theo hệ thống Nho giáo vẫn đưọ'c duy trì tương đối liên tục.
+ Chì hai năm sau khi lên ngôi, vào năm 1529, Mạc Đăng Dung đã mờ ngay
khoa thi Hội lây đồ 27 tiến sĩ. Từ đó về sau, cứ ba năm, nhà Mạc mỏ' một khoa thi lấy đỗ tống cộng 385 tiến sĩ, trong đó có Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1 585, tức Trạng Trình) và bà Nguyễn Thị Duệ - nữ tiến sĩ đầu tiên và duy nhất trong lịch sử khoa cử Nho học Việt Nam.
+ Triều Lê Trung hung tiếp nối truyền thống của nhà Lê sơ trưó'c đây, bên cạnh hình thức thi cừ chính quy, còn tổ chức các kì thi chế khoa, thịnh khoa, khoa sĩ vọng lấy đỗ 851 tiến sĩ. Tuy vậy, nội dung giáo dục ngày càng khuôn sáo, việc tổ chức thi cử nặng nề về hình thức và gian lận công khai nên chất lưọ'ng giáo dục ngày một suy giảm.
ơ Đàng Trong: hình thức khoa cử xuất hiện muộn và không được chú trọng như Đàng Ngoài. Họ Nguyễn quan tâm hơn đến kiến thức thực tế và tuyển dụng quan lại chủ yếu thông qua hình thức tiến cử.
Văn học và nghệ thuật
Câu hỏi: Sự phát triển của văn học và nghệ thuật từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII.
Hướng dẫn trả lời:
Văn học: Thế kỉ XVI - XVII và đầu thế kỉ XVIII, ở nước ta, văn học chữ Hán vẫn chiếm ưu thế. Tuy vậy, nét nổi bật của văn học giai đoạn này là sự nở rộ cùa các tác phẩm văn thơ viết bằng chữ Nôm.
Nghệ thuật: Đây cũng là giai đoạn đánh dấu sự phục hồi và phát triển của các loại hình nghệ thuật diễn xướng và tạo hình cổ truyền. Nghệ thuật sân khấu như chèo, tuồng, hát ả đào, hát quan họ, hát trống quân... hết sức phong phú, đa dạng, phản ánh sinh động đòi sống và ước vọng của nhân dân. Nhiều đình, chùa và các công trình kiến trúc đương thời còn lưu giữ được các tác phẩm điêu khắc gỗ diễn tả cảnh sinh hoạt thường ngày ỏ' làng quê như chèo thuyền, đấu vật, chọi gà, đánh cờ, đi cày, tắm ao... Tiêu biểu nhất là tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt, nghìn tay ở chùa Bút Tháp (Thuận Thành, Bắc Ninh).
Câu hỏi: Hãy nêu đặc điểm văn học, nghệ thuật trong các thế kỉ XVI - XVII ở nước ta.
Hướng dẫn trả lời:
Trong các thế kỉ XVI - XVII, tuy văn học chữ Hán vẫn còn chiếm ưu thế nhưng văn học chữ Nôm đã phát triển mạnh hơn trước. Những nhà thơ Nôm nổi tiếng đương thời như Nguyễn Binh Khiêm, Đào Duy Từ, Nguyễn Dữ... đều dùng chữ Nôm để sáng tác văn học.
+ Một đặc điểm của văn học ở thế kỉ XVI - XVII là sự xuất hiện những truyện Nôm dài. Có truyện Nôm dài ho'n 8000 câu như bộ diễn ca lịch sử Thiên Nam ngữ
lục. Nội dung truyện Nôm thường viết về hạnh phúc con người, tố cáo những bất công xã hội và bộ máy quan lại thối nát.
+ Một đặc điểm khác của nền văn học thế kì XVI - XVII là sự phản ảnh nổi khổ cực của nhân dân và bộ mặt xấu xa của bọn vua quan tàn bạo. Truyên kì mạn lục của Nguyễn Dữ là một tác phẩm có giá trị về mặt này.
Điểm nổi bật ở các thế kỉ XVI - XVII là sự phục hồi và phát triển của nghệ thuật dân gian. Nổi tiếng nhất là tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt, nghìn tay ở chùa Bút Tháp (Bắc Ninh).
Khoa học - kĩ thuật
Câu hỏi: Những thành tựu cơ bản của khoa học - kĩ thuật thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII.
Hướng dẫn trả lời:
Sử học: Tác phẩm lớn như Lê triều công nghiệp thực lục của Hồ Sĩ Dương, 0 châu cận lục của Dương Văn An, Thiên Nam ngữ lục (khuyết danh)... Đặc biệt, Đại Việt sử kí toàn thư được Ngô Sĩ Liên khỏi thảo từ thế kỉ XV, rồi được các sử thần triều Lê sau này biên soạn và hoàn chỉnh.
Khoa học quân sự: thế kỉ XVI - XVIII cũng đạt được những thành tựu rất quan trọng về cả hai phương diện lí luận và thực tiễn vó'i sách Hổ trướng khu cơ và công trình luỹ Thầy của Đào Duy Từ. Thời kì này, công nghiệp đúc súng và đóng các loại thuyền chiến có trang bị đại bác cùa Đàng Trong được nâng cao thêm một bước do sự phát triển của kĩ thuật trong rtưởc, mặt khác, do tiếp thu và vận dụng kĩ thuật của phương Tây.
Câu hỏi: Thông qua việc sưu tầm tài liệu văn học, sử học, em hãy kê đôi nét cơ bản về Nguyễn Bỉnh Khiêm và Đào Duy Từ.
Hướng dẫn trả lời:
Nguyễn Bình Khiêm (1491 - 1585), quê ở huyện Vĩnh Bảo (Hải Phòng), đỗ Trạng nguyên, làm quan triều Mạc, rồi từ quan về dạy học, người đương thời quen gọi là Trạng Trình. Ông có tấm lòng cao thượng, muốn “lo trước những việc lo cùa thiên hạ”. Nguyễn Bỉnh Khiêm thường được mệnh danh là “nhà thơ đạo lí”, là tác giả tiêu biểu nhất cùa nền văn học chữ Nôm ỏ' thế ki XVI.
Đào Duy Từ (1572 - 1634), vừa là một nhà thơ lớn, nhà văn hoá, vừa là nhà quân sự có tài. Ông sinh tạị làng Hoa Trai (Tĩnh Gia - Thanh Hoá), có tài nhưng không được chúa Trịnh cho đi thi. Vào Đàng Trong, Đào Duy Từ được chúa Nguyễn phong tước hầu và trọng dụng trong việc xây dựng hệ thống luỹ Thầy. Ông còn viết một số tác phẩm, có công phát triển nghề hát bội ờ Đàng Trong và là người khởi thảo tuồng Sơn Hậu.