Soạn Văn 9: Viếng lăng Bác

  • Viếng lăng Bác trang 1
  • Viếng lăng Bác trang 2
  • Viếng lăng Bác trang 3
  • Viếng lăng Bác trang 4
  • Viếng lăng Bác trang 5
  • Viếng lăng Bác trang 6
  • Viếng lăng Bác trang 7
VIẾNG LĂNG BÁC
Viễn Phương
KIẾN THỨC Cơ BẢN
• Tác giả: Viễn Phương quê ở tỉnh An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, ông hoạt động ở Nam Bộ, là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kỉ chống Mĩ cứu nước.
Năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, lăng Chủ tịch Hố Chí Minh cũng vừa khánh thành, Viễn Phương ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ Viếng lăng Bác được sáng tác trong dịp đó và in trong tập thơ “Như mây mùa xuân” (1978).
• Tác phẩm: Bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ và của mọi người đối với Bác Hồ khi vào lăng viếng Bác.
Bài thơ có giọng diệu trang trọng và tha thiết, nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi cảm, ngôn ngữ bình dị mà cô đúc.
HƯỚNG DẪN ĐỌC HlỂU VĂN BẢN
Câu 1. Đọc nhiều lần bài thơ, tìm hiểu cảm xúc bao trùm của tác giả và trình tự bỉểu hiện trong bài.
+ Cảm hứng bao trùm bài thơ-, “là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính. Lòng biết ơn, tự hào pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra viếng lăng Bác. Cảm hứng ấy đã chi phôi giọng điệu của bài thơ. Đó là giọng thành kính, trang nghiêm phù hợp với không khí thiêng liêng ở lăng, nơi vị lãnh tụ yên nghỉ. Cùng với giọng suy tư trầm lắng là nỗi đau xót lẫn niềm tự hào.” (Theo Ngữ văn 9 - sách giáo viên)
+ Trình tự biểu hiện của bài thơ theo trình tự vào lăng viếng Bác:
Đầu tiên là cảnh ở bên ngoài lăng với hình ảnh đậm nét nhất là hàng tre trong sương sớm.
— Tiếp đến gần hơn là hình ảnh đoàn người xếp hàng vào lăng viếng Bác.
Tiếp theo là cảm xúc và những suy ngẫm của tác giả khi đã bước vào trong lăng được ngắm nhìn Bác.
Cuối cùng là niềm mong ước tha thiết của tác giả muôn ở bên Bác mãi mãi khi cuộc thăm lăng kết thúc, khi sắp trở về quê hương.
Câu 2. Phân tích hình ảnh hàng tre bên lăng Bác được miêu tả ở khổ thơ đầu. Tác giả đã làm nổi bật những nét nào của cây tre và điều đó mang ý nghĩa ẩn dụ như thế nào? Câu thơ cuối bài trở lại hình ảnh của cây tre đã bổ sung thêm phương diện ỷ nghĩa gì nữa của hình ảnh cây tre Việt Nam?
+ Hình ảnh hàng tre trong khổ thơ đầu: Ân tượng mạnh nhất đô'i với tác giả khi đặt chân đến lăng Bác là hình ảnh hàng tre chờn vờn trong sương sớm, hàng tre ấy mang nhiều ẩn dụ sâu sắc:
— Tre là một loại cây rất bình dị lại được trồng ngay ở giữa Thủ đô lộng lẫy uy nghi, cùng với bao loại cây quý hiếm khác trước lăng Người, phải chăng đó là sự ẩn dụ về con người của Bác: giản dị mà vô cùng thanh cao.
Tre còn là hình ảnh biểu tượng cho làng quê Việt Nam, đất nước thân yêu từ ngàn đời nay với hình ảnh cánh đồng lúa, luỹ tre xanh, con cò trắng đã khắc ghi trong trái tim mỗi người.
— Tre còn là hình ảnh biểu tượng cho tính cách của dân tộc Việt Nam: anh dũng, quật cường, sức sông bền bỉ, dẻo dai “bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng”.
+ Hình ảnh hàng tre ở khổ thơ cuối: tạo ra kết cấu đầu cuối tương ứng, làm đậm nét hình ảnh. Nhưng cây tre ở đây lại mang nét nghĩa mới, nó tượng trưng cho tâm lòng trung hiếu của các thế hệ con cháu đối với đất nước, đối với Bác, quyết đi theo con đường mà Bác đã lựa chọn. Và phải chăng đó còn là hình ảnh những người lính cảnh vệ đang canh giấc ngủ bình yên cho Bác mà nhà thơ Viễn Phương muôn gởi gắm.
Câu 3. Tình cảm của nhà thơ và của mọi người đối với Bác đã được thể hỉện như thế nào trong các khổ thơ 2, 3, 4? Chú ỷ phân tích những hình ảnh ẩn dụ đặc sắc trong các khổ thơ này.
+ Lòng tôn kính Bác:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Sự tôn kính của nhà thơ và mọi người đối với Bác đã được thể hiện qua phép ẩn dụ đặc sắc. Mặt trời của thiên nhiên đem ánh sáng xua tan đêm tối, mang tới sự sông cho muôn loài. Mặt trời Bác Hồ đem ánh sáng cách mạng xua tan bóng đêm nô lệ, đem lại độc lập tự do cho dân tộc. Một ẩn dụ thật độc đáo vừa thể hiện sự vĩ đại của Bác vừa thể hiện sự tôn vinh, lòng ngưỡng mộ của tác giả và của mọi người đôì với Bác.
+ Niềm thương nhớ Bác:
vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Trời xanh là vĩnh hằng, cũng như tên tuổi và sự nghiệp của Bác sẽ sông mãi với dân tộc Việt Nam, nhưng trong trái tim nhà thơ và trong trái tim mọi người vẫn quặn lên nhức nhối khi nghĩ tới một điều nghiệt ngã: Bác đã không còn nữa. Từ khi Bác mất đến khi nhà thơ Viễn Phương được vào lăng viếng Bác đã bảy năm trôi qua nhưng nỗi đau mất Bác trong lòng mọi người vẫn cứ như buổi ban đầu, chưa thể nguôi ngoai. Hàng đoàn người vẫn ngày ngày đi trong thương nhó vào lăng viếng Người.
Câu 4. Nhận xét về sự thống nhất giữa nội dung tình cảm, cảm xúc và các yếu tố nghệ thuật (thể thơ, nhịp điệu, ngôn ngữ, hình ảnh) của bài thơ.
Giữa nội dung tình cảm, cảm xúc và các yếu tố nghệ thuật rất phù hợp với nhau đều thể hiện sự trang nghiêm sâu lắng, niềm xót xa, tự hào và sự đau đớn, xót xa của tác giả khi đứng trước lăng Người.
4- Thể thơ và nhịp điệu: Thể thơ tám chữ thỉnh thoảng có xen những câu thơ bảy chữ và chín chữ, phù hợp với âm điệu trang nghiêm. Cách gieo vần linh hoạt không gò bó. Nhịp thơ chậm rãi thể hiện sự trầm lắng, suy tư lắng đọng vào chiều sâu của tâm trạng.
+ Ngôn ngữ hình ảnh: Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, hình ảnh thơ mang tính ẩn dụ sâu sắc, mặc dù những hình ảnh đã quen thuộc nhưng qua cách diễn đạt của tác giả lại có thêm những ý nghĩa mới mẻ.
HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Học thuộc lòng bài thơ.
Viết một đoạn văn bỉnh khổ 2 hoặc 3 của bài thơ.
Đoạn tham khảo (phân tích khổ 3)
Khổ thơ thứ ba nói về cảm xúc của tác giả khi đã vào trong lăng viêhg Bác. Đây là nơi ngự trị của cái im lặng trang nghiêm, của sự yên nghỉ đời đời. Câu thơ đã viết ra rất đỗi chân thực và thơ mộng:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.
Khung cảnh bình yên, lặng lẽ gợi lên giác ngủ ban đêm, êm đềm dưới vầng trăng dịu hiền. Nhà thơ một mặt không muôn cảm nhận đây là giấc ngủ vĩnh viễn, ngủ ban ngày, mặt khác không thể không thấy một sự thật: con người đang nằm đã vĩnh viễn ra đi:
vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Dù biết Bác vĩnh viễn như trời xanh, thì cũng không che giấu được một sự thật mất mát, làm đau nhói con tim. Câu thơ như một “tiếng nấc nghẹn ngào”.
(Theo Trần Đình sử - Đọc văn và học văn)
TƯ LIỆU THAM KHẢO
Tình cảm của nhân dân đối với Hồ Chí Minh đặc biệt như thế nào, điều này không mới. Riêng trong thơ, ta đã cảm nhận được ở Tô" Hữu, Minh Huệ,... Và lần này thì ở Viễn Phương. Thơ của Viễn Phương có phong cách độc đáo vừa giàu chất liệu tâm trạng vừa giàu chất suy tưởng, vừa hiện thực vừa trữ tình, vừa hồn nhiên mơ mộng... nghĩa là những cung bậc khác nhau, pha trộn vào nhau. Hồ Chí Minh vừa lớn lao vừa bình dị biết nhường nào. Vì thế, nhà thơ dường như không thể làm khác được. Mạch cảm hứng toàn bài dựa trên trục thời gian hình thành như nhật kí một cuộc viếng thăm cũng là một cuộc hành hương về cội nguồn.
1. Khổ đầu của bài thơ - cảm nhận đầu tiên là cái bỡ ngỡ vừa lạ vừa quen: Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Câu thơ không nói gì nhiều, nhưng đọc lên nghe cứ rưng rưng. Miền Nam là mảnh đất xưa cha ông đi mở cõi, trong chiến tranh là mảnh đất
đi trước về sau muôn vàn gian khổ. Trong hai cuộc chiến tranh giữ nước, miền Nam là một bức thành đồng... luôn hướng về đất Bắc trái tim của cả nước. Vì vậy khi đặt chân lên mảnh đất thiêng liêng, cảm xúc của nhà thơ - đại diện cho những đứa con xa không khỏi ngỡ ngàng như bước vào giấc mơ tưởng chừng không có thực. Câu thơ thật vui mừng khôn xiết lại vừa thật xót xa. Một cái gì như bị kìm nén oà ra tức tưởi. Hai mảnh đất hai địa đầu đất nước được nối lại bằng cuộc hành hương.
Hình ảnh nhà thơ gặp gỡ đầu tiên khi ra thăm lăng Bác là hàng tre quen thuộc đến nao lòng. Một chữ “đã” trong câu “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát”. Đã là cái cử chỉ thân yêu, một hành động “tay bắt mặt mừng” vồn vã dù được thực hiện bằng một tiếng nói vô ngôn. Chất suy tưởng trong thơ từ cảm xúc rất thực này mà cất cánh:
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Một từ cảm thán đứng đầu câu đã mở ra bao tầng cảm nghĩ. Màu xanh của tre, trúc chỉ là chuyện thường tình nhưng một linh hồn Việt Nam, một cốt cách Việt Nam đã in trọn vẹn dấu ấn của mình vào đó. Đằng sau cái sương khói mơ hồ thực ảo thấp thoáng một dáng đứng Việt Nam, một dáng đứng bốn nghìn năm dựng nước “Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”, bền bỉ dẻo dai vĩnh hằng bất biến là những phẩm chất riêng chỉ dân tộc này mới có? Không khí của bài thơ được tạo ra bởi một nét cảm động mà bâng khuâng, xao xuyến tận đáy lòng. Phải chăng những con người bất khuất trung kiên vào sống ra chết như thế nào trong cuộc sinh tử dữ dội mới có thể xúc động trước một hàng tre mà những kẻ vô tâm ít người để ý.
Hai khổ thơ tiếp theo - phần chính của bài là sự bàng hoàng chiêm ngưỡng: Hồ Chí Minh vĩ đại mà giản dị đến không ngờ. về sự vĩ đại của Người, có thể sánh với trăng sao, nghĩa là thuộc về vũ trụ, nhưng cái ánh sáng mà trăng sao toả ra không đủ sức ấm cho muôn loài mà chỉ là ánh sáng của mặt trời. Và tứ thơ bỗng nhiên bất ngờ xuất hiện, xuất hiện rất kịp thời phù hợp với cảm nghĩ của nhà thơ:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Phép đốì xứng ở đây tưởng như đã cũ, nhưng ở trong văn cảnh này, không còn một cách nói nào thích hợp hơn. Vũ trụ có mặt trời, dân tộc cũng có mặt trời riêng của mình. Sự tương xứng và song hành trong thực tế và trong tâm tưởng đã diễn ra cùng một lúc. Hồ Chí Minh vĩ đại biết bao nhiêu. Tuy vậy cũng có sự khác nhau: mặt trời của thiên nhiên là im lặng vô hồn, còn cái vĩnh cửu của mặt trời trong lăng thuộc về con người, thuộc về sự sông... Khổ thơ nói về mặt trời trong lăng có ý nghĩa sâu xa: những hào kiệt, những anh linh không thể chết nếu lấy tiêu chí về sự bất tử của linh hồn:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.
Gam màu thơ từ chói lọi rực rỡ ở khổ trên đã chuyển hướng trở nên mềm mại dịu dàng ở khổ sau, mở ra một tầng cảm nghĩ mới. Người gắn bó với thiên nhiên nhất là với trăng, thì giờ đây trăng vẫn chung thuỷ với người. Ý thơ của Viễn Phương gợi nhớ tới biết bao nhiêu câu thơ rất đẹp về trăng của Hồ Chí Minh: “Tiếng suối trong như tiếng hát xa — Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”... Hồ Chí Minh giờ đã đi xa, trăng bầu bạn chung thuỷ vỗ về. Nhưng ngay sau đó là một ý nghĩ cảm thương xuất hiện:
vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim
Khổ cuối của bài thơ, về hình tượng có sự đối ứng với khổ thơ đầu. Địa danh miền Nam và hình ảnh cây tre được lặp lại nhưng ý nghĩa tinh thần thì đã khác. Trở về nơi đã ra đi, từ nơi vừa đến là nước mắt ngập tràn hàng mi (thương trào nước mắt) và hàng tre gặp gỡ đã nâng thành một biểu tượng về tính cách, về nhân phẩm con người, thành cây tre trung hiếu, nguyện vọng hoá thân của nhà thơ trong cảm xúc dâng trào ấy:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây.
Giọng thơ trầm lắng xuống, nhưng nguyện vọng rất thiết tha lại nghẹn ngào không nói nên lời đang cất lên tiếng nói vô thanh. Mà cái nguyện vọng kia mới khiêm nhường bé nhỏ nhường nào? Một tiếng chim ca, một đoá hoa lặng lẽ toả hương... sự thành kính đến nghiêm trang đầy xúc động thể hiện niềm tôn vinh của nhà thơ đôi với một con người là linh hồn như còn phảng phất trong sương, trong nắng. Đồng thời nó làm nhiệm vụ hoàn tất bài thơ với niềm thương tiếc và kính yêu vô hạn. Có thể nói bài thơ là một tiếng nói giản dị, hồn nhiên mà âm vang của nó làm thổn thức lòng người mãi mãi.
{Theo Vũ Dương Quỹ, Lê Bảo - Bình giảng Vãn 9)
Rưng rưng trông Bác nằm yên Giấu rồi nước mắt khó cầm cứ rơi
ơ đây lạnh lắm, Bác ơi Chăn đơn Bác đắp nửa người, ấm sao
Ka-ki áo cũ bạc màu Trán cao đôi mắt trũng sâu, Bác gầy
Một đời không giấc ngủ say Cháu nhìn, nghĩ Bác giờ này còn lo
(Một lần viếng Bác - Vương Trọng)