SGK Sinh Học 7 - Bài 46: Thỏ

  • Bài 46: Thỏ trang 1
  • Bài 46: Thỏ trang 2
  • Bài 46: Thỏ trang 3
THÒ
•-W
Hình 46.1. Nhau thai của thỏ
LỚP THÚ (LỚP CÓ VÚ)
Bài 46
I - ĐỜI SỐNG
Trong tự nhiên, thỏ hoang sông ở ven rừng, trong các bụi rậm, cỏ tập tính đào hang, ẩn náu trong hang, bụi rậm để lẩn trôn kẻ thù hay chạy rất nhanh bằng cách nhảy hai chân sau khi bị săn đuổi. Thỏ kiêm ăn chủ yếu về buổi chiều hay ban đêm. Chúng ăn cỏ, lá bằng cách gặm nhấm (gặm từng mảnh nhỏ). Thỏ là động vật hằng nhiệt.
Thỏ đực có cơ quan giao phôi. Trong ống dẫn trứng, trứng thụ tinh phát triển thành phôi và một bộ phận là nhau thai, gắn liền với tử cungl Tử cung là một đoạn của ống dẫn trứng, ờ đấy thai (phôi) phát triển trong thời gian thỏ mẹ mang thai.
) của thỏ mẹ. Nhau thai có vai trò đưa chất dinh dưỡng từ cơ thể mẹ vào phôi qua dây rốn và cũng qua dây rốn và nhau thai, chất bài tiết tù’ phôi được chuyển sang cơ thể mẹ. Hiện tượng đẻ con có nhau thai được gọi là hiện tượng thai sinh. Thò mẹ mang thai trong 30 ngày. Trước khi đẻ, thỏ mẹ dùng miệng nhổ lông ở ngực và xung quanh vú để lót ổ. Thỏ con mới đẻ chưa có lông, chưa mở mắt, được bú sữa mẹ.
II - CẤU TẠO NGOÀI VÀ DI CHI YEN
Cấu tạo ngoài
Cơ thể thỏ được phủ bằng bộ lông dày, xốp gồm những sợi lông mảnh khô bằng chất sùng, được gọi là lông mao. Bộ lông mao che chở vạ giữ nhiệt cho cơ thể. Chi thỏ có vuốt sắc. Chi trước ngắn còn dùng để đào hang (hình 46.3) ; chi sau dài khoẻ, bật nhảy xa giúp thỏ chạy nhanh khi bị săn đuổi. Thỏ kiếm ăn vào ban đêm. Mũi thỏ rất thính. Cạnh mũi ở hai bên môi có ria, đó là những lông xúc giác có vai trò xúc giác nhạy bén, phối hợp cùng với khứu giác giúp thỏ thăm dò thức ăn hoặc môi trường.
Mắt thỏ không tinh lắm. Mi mắt cử động được, có lông mi, vừa giữ nước mắt làm màng mắt không bị khô, vừa bảo vệ cho mắt (đặc biệt khi con vật lẩn trốn kẻ thùtrong bụi cây rậm rạp, gai góc). Tai thở rất thính, có vành tai dài, lớn, cử động được theo các phía, định hướng âm thanh phát hiện sớm kẻ thù.
Quan sát hình 46.2, 3 đọc các thông tin có liên quan tới các hình trên, điền nội dung phù họp vào bảng sau :
Bảng. Đặc điểm cấu tạo ngoài của thỏ thích nghi với đời sống và tập tính lẩn trôn kẻ thù
Bộ phận cơ thể
Đặc điểm cấu tạo ngoài
■
Sự thích nghi với đời sóng và tập tính lẩn trôn kẻ thù
Bộ lông
Bô lông	
•
Chi (có vuốt)
Chi trước	
Chi sau	
Giác quan
Mũi	và lông xúc giác	
Tai	vành tai	
Hình 46.2. Cấu tạo ngoài của thỏ	Hình 46.3. Thỏ đào hang
Mắt ;2.vành tai; 3. Lông xúc giác ;
4. Chi trước ; 5. Chi sau ; 6. Đuôi; 7. Bộ lông mao.
Di chuyên
Thở di chuyên bằng cách nhảy đổng thời bằng cả hai chân sau. Động tác di chuyên của thỏ được minh hoạ ở hình 46.4.
Hình 46.4. Động tác di chuyển của thỏ
Quan sát hình 46.5 giải thích tại sao, con thỏ chạy không dai sức bằng thú ăn thịt song trong một sô trường hợp vẫn thoát khỏi được nanh vuốt của con vật săn mồi (lưu ý trên đường chạy của thỏ có cả những đoạn có bụi cây rậm rạp và các hang trong đất).
Hình 46.5. Cách chạy của thỏ khi bị săn đuổi Đường chạy của thỏ
	>- Đường chạy của chó săn
Thò là động vật hăng nhiệt, ăn cò, lá bàng cách gậm nhám, hoạt động vê ban đêm. Đẻ con (thai sình), nuôi con bàng sữa mẹ. Co thề phù lồng mao. Câu tạo ngoài, các gỉác quan, chỉ và cách thức di chuyền cùa thỏ thích nghỉ với đời sống và tập tính lẩn trốn kẻ thù.
1. Hãy nêu cấu tạo ngoài của thỏ thích nghi với điều kiện sống.
2 Xem chú thích trang 124
. Hãy cho biết vì sao thỏ hoang di chuyên với vận tốc tôi đa là 74 km/h, trong khi đó cáo xám : 64 km/h ; chó săn : 68 km/h ; chó sói : 69,23 km/h, thế mà trong nhiều trường hợp thỏ rừng vẫn không thoát khỏi những loài thú ăn thịt kể trên.
Nêu ưu điếm của sự thai sinh so với sự đẻ trứng và noãn thai sinh(*).
m có biết ỉ
Tất cả giống thở nhà đều có nguồn gốc từ thỏ hoang hiện còn sống ở nhiều nơi trong vùng Địa Trung Hải và Tây Âu. Thỏ chỉ mới được nuôi cách đây khoảng hai thế kỉ. Thỏ được nuôi đầu tiên ở Tây Ban Nha để lấy lông và lây thịt, ngày nay đã có ít nhất là 60 giống thỏ. Thỏ nhà ở nước ta được nhập từ phương Tây, cách đây khoảng 100 năm. Đặc biệt, năm 1960 nước ta cũng đã nhập nội giống thỏ ăngora có bộ lông mềm, nhẹ và ấm, màu trắng tuyền.