Soạn Văn 8: Bố cục của văn bản

  • Bố cục của văn bản trang 1
  • Bố cục của văn bản trang 2
  • Bố cục của văn bản trang 3
  • Bố cục của văn bản trang 4
  • Bố cục của văn bản trang 5
  • Bố cục của văn bản trang 6
BỐ CỤC CỦA VĂN BẢN
KIẾN THỨC Cơ BẢN
Bố cục của văn bản là sự tổ chức các đoạn văn để thể hiện chủ đề. Văn bản thường có bô cục ba phần: Mở bài, Thân bài, Kết bài.
Phần Mở bài có nhiệm vụ nêu ra chủ đề của văn bản. Phần Thân bài thường có một số đoạn nhỏ trình bày các khía cạnh của chủ đề. Phần Kết bài tổng kết chủ đề của văn bản.
Nội dung phần Thân bài thường được trình bày theo trình tự tùy thuộc vào kiểu văn bản, chủ đề, ý đồ giao tiếp của người viết. Nhìn chung, nội dung ấy thường được sắp xếp theo trình tự thời gian và không gian, theo sự phát triển của sự việc hay theo mạch suy luận, sao cho phù hợp với sự triển khai chủ đề và sự tiếp nhận của người đọc.
HƯỚNG DẪN TÌM HlỂU CÂU HỎI PHAN bài học
Bô" cục văn bản
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi.
NGƯỜI THẦY ĐẠO CAO ĐÚC TRỌNG
“Ông Chu Văn An đời Trần nổi tiếng là một thầy giáo giỏi, tính tình cứng cỏi, không màng danh lợi.
Học trò theo ông rất đông. Nhiều người đỗ cao và sau này giữ những trọng trách trong triều đình như các ông Phạm Sư Mạnh,
Lê Bá Quát, vì thế vua Trần Minh Tông vời ông ra dạy thái tử học. Đến đời Dụ Tông, vua thích vui chơi, không coi sóc tới việc triều đình, lại tin dùng bọn nịnh thần, ông nhiều lần can ngăn nhưng vua không nghe. Cuối cùng ông trả lại mũ áo cho triều đình, từ quan về làng. •
Học trò của ông, tự người làm quan to tới những người bình thường, khi có dịp thăm thầy cũ, ai cũng giữ lễ. Nếu họ có điều gì không phải, ông trách mắng ngay, có khi không cho vào thăm.
Khi ông mất, mọi người đều thương tiếc. Ông được thờ tại Văn Miếu ở kinh đô Thăng Long.”
(Theo Phan Huy Chú)
Văn bảìi trên gồm có 3 phần:
+ Phần một (từ đầu đến... danh lợi) - Mở bài: Giới thiệu về thầy giáo Chu Văn An.
+ Phần hai (từ học trò... vào thăm) - Thân bài: Chứng minh thầy giáo Chu Văn An là thầy giáo giỏi, tính tình cứng cỏi.
+ Phần ba (còn lại) - Kết bài: Niềm tiếc thương và sự tôn kính thầy giáo Chu Văn An.
Mối quan hệ giữa các phần:
+ Phần mở bài (phần một) nêu ý khái quát làm luận đề cho toàn văn bản: Chu Văn An là thầy giáo giỏi, tính tình cứng cỏi không màng danh lợi.
+ Phần Thân bài (phần hai) triển khai luận đề, có hai luận điểm chính.
Luận điểm một: Nổi tiếng là thầy giáo giỏi
Luận điểm hai: Nổi tiếng cứng cỏi
+ Phần kết bài (phần ba) kết thúc luận đề - ý kết luận dựa trên cơ sở các luận điểm đã trình bày ở phần thân bài: “vì giỏi, tính tình cứng cỏi mà mọi người tiếc thương khi ông mất.
Cách bố trí, sắp xếp nội dung phần thân bài của văn bản
a. Phần Thân bài của văn bản Tôi đi học:
+ Gồm có các sự kiện sau: Trời cuối thu, lá rụng, các em nhỏ đến trường, hồi ức về tâm trạng của nhân vật tôi: Trên đường đi, khi đến sân trường, khi nghe thầy giáo đọc tên, khi vào lớp học.
+ Các sự kiện được sắp xếp theo trình tự thời gian (hiện tại —» quá khứ) và không gian từ trên con đường làng —> vào lớp học.
Phần Thân bài của văn bản Trong lòng mẹ:
+ Gồm có hai sự kiện: sự kiện người cô gọi đến nói chuyện và sự kiện người mẹ trở về.
+ Hai sự kiện này sắp xếp theo trình tự thời gian trước và sau ngày giỗ đầu người cha của cậu bé Hồng.
+ Diễn biến tâm trạng của cậu bé từ đau đớn uất ức mong nhớ khi nói chuyện với người cô) chuyển sang sung sướng, hạnh phúc rạo rực say mê (khi được gặp lại mẹ).
Khi tả người, vật, phong cảnh..., ta sẽ lần lượt miêu tả theo thứ tự: từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ cao xuống thấp, từ ngoại hình đến nội tâm...
Ví dụ: Cảnh Động Phong Nha được miêu tả theo thứ tự từ xa tới gần, từ ngoài vào trong. Cảnh Sông nước Cà Mau miêu tả theo thứ tự từ hẹp đến rộng từ dưới sông lên hai bờ sông.
Phần Thân bài của văn bản Người thầy đạo cao đức trọng:
+ Gồm có hai đoạn, mỗi đoạn thể hiện một khía cạnh của vấn đề.
+ Đoạn thứ nhất người thầy đạo cao (thầy giáo giỏi). Đoạn thứ hai người thầy đức trọng (cứng cỏi không màng danh lợi).
HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Câu 1. Phăn tích cách trình bày ý trong các đoạn trích sau:
a) “Tôi vội ra khoang trước nhìn. Xa xa từ vệt rừng đen, chim cất cánh tua tủa bay lên, giông hệt đàn kiến từ lòng đất chui ra, bò li ti đen ngòm lên da trời.
Càng đến gần, những đàn chim 'đen bay kín trời, cuốn theo sau những luồng gió vút làm tôi rối lên, hoa cả mắt. Mỗi lúc, tôi càng nghe rõ tiếng chim kêu náo động như tiếng xóc những rổ tiền đồng. Chim đậu chen nhau trắng xóa trên những đầu cây mắm, cây chà là, cây vẹt rụng trụi gần hết lá. cồng cộc đứng trong tổ vươn cánh như tượng những người vũ nữ bằng đồng đen đang vươn tay múa. Chim già đẫy, đầu hói như những ông thầy tu mặc áo xám, trầm tư rụt cổ nhìn xuống chân. Nhiều con chim rất lạ to như con ngỗng đậu đến oằn nhánh cây.
Chim tập trung về đây nhiều không thể nói được. Chúng đậu và làm tồ thấp lắm, đứng dưới gốc cây có thể thò tay lên tổ nhặt trứng một cách dễ dàng. Xa xa, thấp thoáng có người quảy giỏ, cầm sáo trúc để bắt chim, coi bộ dễ hơn bắt gà trong chuồng.
Tiếng chim kêu vang động bên tai, nói chuyện không nghe nhau được nữa. Thuyền chúng tôi tiếp tục chèo, đi tới ba nghìn thước rồi mà vẫn thấy chim đậu trắng xóa trên những cành cây gie sát ra sông.”
(Theo Đoàn Giỏi, Đất rừng phương Nam)
+ Cách trình bày ý của đoạn văn trên theo trình tự từ xa đến gần rồi lại lùi ra xa, theo điểm quan sát của một người dứng ở trên chiếc thuyền đang trôi dọ.c trên sông.
+ Đoạn văn gồm có 4 ý:
Ý một (đoạn đầu tiên): cảnh đàn chim khi mới nhìn thấy (từ xa)
Ý hai (đoạn hai): tả cảnh đàn chim đậu trong vườn cây ở trên cao (khi đến gần).
Ý ba (đoạn ba): cảnh đàn chim đậu trong vườn cây ở dưới thấp (đến tận nơi).
Ý bôn (đoạn bốn): cảnh đàn chim khi thuyền đã đi xa (cảnh lùi dần).
“Vẻ đẹp của Ba Vì biến ảo lạ lùng từng mùa trong năm, từng giờ trong ngày. Thời tiết thanh tịnh, trời trong trẻo, ngồi phóng tầm mắt qua những thung lũng xanh biếc, Ba Vì hiện lên như hòn ngọc bích, về chiều, sương mù tỏa biếc, Ba Vì nổi bồng bềnh như vị thần bất tử ngự trên sóng. Những đám mây nhuộm màu biến hóa muôn hình, nghìn dạng tựa như một nhà ảo thuật có phép tạo ra một chân trời rực rỡ. Khi vầng sáng nan quạt khép lại dần, trăng vàng mịn như một nôt nhạc bay lên bầu trời, ru ngủ muôn đời thần thoại.”
(Võ Văn Trực, Vời vợi Ba Vì)
+ Đoạn văn tả cảnh Ba Vì theo trình tự thời gian: sáng - chiều - tối. Sự biến ảo lạ lùng của Ba Vì trong từng giờ, từng ngày.
+ Gồm có ba ý:
® Ý một (Thời tiết đến hòn ngọc hích)'. Cảnh Ba Vì buổi sáng sớm.
Ý hai (tiếp đến chân trời rực rỡ): Cảnh Ba Vì lúc chiều về.
Ý ba (còn lại): Cảnh trăng lên lúc buổi tôi.
“Lịch sử thường sẵn những trang đau thương, mà hiếm những trang vui vẻ: bậc anh hùng hay gặp bước gian nguy, kẻ trung nghĩa thường lâm cảnh khốn đôn. Những khi ấy, trí tưởng tượng dân chúng tìm cách chữa-lại sự thật, để khỏi phải công nhận những tình thế đáng ưu uất.
Ta thử lấy truyện Hai Bà Trưng mà xét. Tuy trong lịch sử có chép rõ ràng Hai Bà phải tự vẫn sau khi đã thất trận, nhưng ngay ở làng Đồng Nhân nơi thờ Hai Bà vẫn^chép rằng Hai Bà đều hóa đi, chứ không phải tử trận. Đối với các nữ tướng của Hai Bà cũng vậy, ta chỉ thấy các vị anh hùng đó hóa lên trời.
Nghe truyện Phù Đổng Thiên Vương, tôi thường tưởng tượng đến một trang nam nhi, sức vóc khác người, với tâm hồn chất phác và giản dị, như tâm hồn người thuở xưa. Tráng sĩ ấy gặp lúc nước nhà lâm nguy đã xông pha ra trận, đem sức khỏe mà đánh tan giặc, nhưng bị thương nặng. Tuy thế người trai làng Phù Đổng vẫn còn ăn một bữa cơm (chỗ ấy nay lập đền thờ ở làng Xuân Tẫo) rồi nhảy xuống Hồ Tây tắm, xong mới ôm vết thương lên ngựa đi tìm một rừng cây âm u nào, ngồi dựa một gốc cây to, giấu kín nỗi đau đớn của mình mà chết.”
(Nguyễn Đình Thi, Sức sống của dân Việt Nam trong ca dao và cổ tích)
+ Đoạn văn nói về sức sống của dân tộc Việt Nam qua trí tưởng tượng.
+ Gồm có 2 ý:
Ý một (từ đầu đến đáng ưu uất): Thể hiện trí tưởng tượng tìm cách chữa lại đau thương cho những người anh hùng bậc trung nghĩa.
Ý hai (còn lại): Lấy dẫn chứng về cuộc đời Hai Bà Trưng và Phù Đổng Thiên Vương để minh họa làm sáng tỏ cho ý trên.
Câu 2. Nếu phải trình bày về lòng thương mẹ của chú bé Hồng ở văn bản “Trong lòng mẹ”, em sẽ trình bày những ý gì và sắp xếp chúng ra sao?
Văn bản Trong lòng mẹ thể hiện những tình cảm yêu thương cháy bỏng của cậu bé Hồng đối với người mẹ bất hạnh, dựa trên chủ đề đó chúng ta có thể sắp xếp các ý trong bài văn như sau:
+ Phản ứng tâm lí của cậu bé Hồng trước những lời xúc phạm của người cô đốì với mẹ.
+ Cảm giác sung sướng hạnh phúc rạo rực ngây ngất của cậu bé Hồng khi được gặp lại mẹ, được nằm trong lòng mẹ.
Câu 3. Để chứng minh tính đúng đắn của câu tục ngữ: “Đi một
ngày đàng, học một sàng khôn”, có bạn dự định sắp xếp trong phần Thân bài các ý sau. Theo em cách sắp xếp trên đã hợp lí chưa? Nếu chưa hợp lí thì sửa lại như thế nào?
+ Hệ thông ý của bạn được sắp xếp:
a) Chứng minh tính đúng đắn của câu tục ngữ:
Các vị lãnh tụ bôn ba tìm đường cứu nước.
Những người thường xuyên chịu khó hòa mình vào đời sông sẽ nắm chắc tình hình, học hỏi được nhiều điều bổ ích.
Trong thời kì đổi mới, nhờ giao lưu với nước ngoài, ta học tập được công nghệ tiên tiến của thế giới.
ỏ) Giải thích câu tục ngữ:
Nghĩa đen và nghĩa bóng của vế “đi một ngày đàng”.
Nghĩa đen và nghĩa bóng của vế “học một sàng khôn”.
+ Sự sắp xếp như trên là không hợp lí; bởi vì thông thường trước khi muôn chứng minh một vấn đề nào đó trước hết ta phải giải thích cho người đọc hiểu hết các khái niệm trước đã thì phần chứng minh mới có giá trị, bài làm mới chặt chẽ lô gíc.
+ Ta sắp xếp lại bằng cách chuyển ý (b) lên trước, ý (a) xuống dưới.