Soạn Văn 8: Viết bài tập làm văn số 2 - Văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm (làm tại lớp)
+ Nói khoác là một tính cách của con người trong đời sống. VIẾT BÀI TẬP LÀM VĂN số 2-VĂN Tự sự KẾT Hộp VỚI MIÊU TẢ VÀ BIỂU CẢM (LÀM TẠI LỚP) ĐỀ BÀI THAM KHẢO. Đề 1. Hãy kể về một kỉ niệm đáng nhớ đối với một con vật nuôi mà em yêu thích. Đề 2. Kể về một lần em mắc khuyết điểm khiến thầy, cô giáo buồn. Đề 3. Kể về một việc em đã làm khiến bố mẹ vui lòng. Đề 4. Nế u là người được chứng kiến lão Hạc kể chuyện bán chó với ông giáo trong truyện ngắn của Nam Cao thì em sẽ ghi lại câu chuyện đó. như thế nào? MỘT SỐ BÀI VĂN THAM KHẢO Đề 1: Kể về kỉ niệm đáng nhớ với một con vật nuôi Mẹ mới mua cho em tôi con gà bông đẹp lắm. Thế là cả hai chị em xúm vào, chí chóe giành nhau món đồ chơi ấy. Bất chợt mẹ tôi nói: “Ngày xưa con cũng có một con gà còn gì!”. Con gà, con gà... ừ nhỉ, tôi cũng đã từng có một con gà... Trong đầu tôi vẫn giữ nguyên hình ảnh ấy, thực như người ta giữ kĩ một cuốn sách và giờ đây đem ra đọc lại. Sáng hôm ấy, bà tôi dắt tôi ra chợ Tết mua gà. Đông vui và tấp nập lắm. Hàng gà đầy người, họ mua mua bán bán cãi nhau ỏm tỏi rồi lại cười xuề xòa. Nhưng có điều khác giữa tôi và họ, là họ mua gà về để ăn Tết còn tôi mua gà về để nuôi, để bắt đầu một năm mới. ơ góc khuất của hàng gà có một đôi gà con. Một con màu vàng xinh lắm với một con màu nâu gầy xọp, ấy là tôi nhớ vậy. Bà đã mua cho tôi một con nhưng... ,đó không phải là con màu vàng mà tôi ao ước, mà là con màu nâu xấu xí kia. Quá thất vọng, tôi chẳng muôn cầm con gà về nhà. về nhà bà thả nó ra sân. Cái cách con gà này làm quen với mọi người thực là kì cục. Với dáng điệu vênh vang, nó đi khệnh khạng quanh sân tự giới thiệu mình với mọi người như thể- ông chủ mới, thi thoảng lại đủng đỉnh gõ mỏ đập xuống sân như vừa được ăn thóc. Ra cái vẻ “bề trên”, nó ra mổ vào trán con mèo mun của ông tôi. Bị giáng một cú bất ngờ đau điếng, nó ngoạc mồm kêu “meo...” rồi chạy vụt lên mái nhà. Quá khoái chí, nó - con gà ấy lại định đưa hai cái chân nâu nâu bé tí lèo khèo ra trêu con Mực rồi bị con Mực gầm lên một tiếng. Sợ quá, nó co giò chạy, nhưng để giữ cái sĩ diện của một “ông chủ mới”, nó cứ chạy được một quãng thì lại đứng lại quay nhìn con Mực. Thế là cuộc trình diễn đã xong. Từ lúc chưa có con gà, chưa có con nâu ấy, cả nhà cưng chiều tôi lắm. Sáng dậy mẹ đã chuẩn bị sẵn nào bàn chải, khăn mặt, nào bữa ăn sáng. Còn bây giờ, tôi phải tự làm hết, bởi vì mẹ tôi - còn cho em Nâu ăn. Nhưng cũng từ đó, tôi đã trở thành con bé tự giác, một con bé khỏe mạnh thay cho một con bé ốm yếu hay vòi vĩnh xưa kia. Con gà ấy có đôi chân chì. Lông ở cổ hoe hoe vàng, lông đuôi cụt ngủn, nhưng nó là một con gà “có-tư-cách”. Bé tí thế thôi mà nó cũng đã “lập được chiến công”. Mấy con chó bên hàng xóm hay sang bắt nạt con Mực nhỏ của ông tôi thì nay bị con Nâu dạy cho bài học nhớ đời. Con Nâu hai chân xoạc rộng, hai cánh vắt sau lông, và như một dũng sĩ oai phong, quả cảm. Nó nhảy bên này, nhảy bên kia làm lũ chó sợ quá chạy mất. Với chiến công đó, tôi đem khoe khắp xóm. Và từ lúc ấy, tôi cảm thấy mình yêu quý con gà biết bao. Tôi không còn ghét cái điệu bộ đi nghênh ngang của nó nữa mà tôi yêu nó, yêu cái đầu lơ thơ lông nâu của nó. Đã thế, tôi còn đeo cho nó một cái lục lạc lên cổ. Tôi và nó đã thực sự như những người bạn. Nhưng rồi một ngày... Chiều hôm ấy, tôi ở trường Mầm non về. Vừa mới học được bài hát mới nên tôi vui lắm, vừa đi vừa nhảy nhót “Con chim Manh manh, nó đậu cành chanh...” Quái lạ! Tôi thầm nghĩ: “Sao hôm nay mọi người lại có vẻ buồn buồn thế, hay là...”. Tôi vụt chạy ra cái lồng gà bé xinh xinh để tìm con Nâu mà chẳng thấy, lẽ nào, lẽ nào... Mắt tôi bắt đầu ầng ậc nước, miệng tôi mếu máo: “Mẹ ơi, gà của con đâu?” Bô dẫn tôi ra góc sân. Con Nâu nằm đó, vẫn bộ lông nâu thưa thớt, vẫn cái chân chì nhưng nó không còn động đậy được nữa. Bô tôi an ủi: “Không có con Nâu, con còn nhiều người bạn khác mà!” và tôi òa lên mà khóc, khóc nức nở như vừa mất đi thứ gì quý giá. Từng giọt nước mắt lăn trên má, tôi bồi hồi nhớ lại từng kỉ niệm của tôi với nó. Nghe mẹ kể lại, con Nâu lang thang chơi rồi bị rơi xuống cái ao ở sau vườn. Thật tội nghiệp cho nó! Suốt mấy ngày sau, lúc nào hình ảnh con Nâu cũng hiện lên trong lòng tôi. Tôi như vẫn thấy bóng dáng nó đi lại trong sân, trêu chọc con Miu và con Mực. Cả con Miu và con Mực cũng như buồn hẳn đi vì thiếu vắng cái bóng nghịch ngợm của con Nâu... Tôi ngắm nghía* con gà bông ấy. Công nhận là nó đẹp thật, nhưng làm sao bằng được với con Nâu của tôi. Con Nâu của tôi có thể xấu hơn, lông không và-pg óng ả như nó nhưng quan trọng hơn hết, nó đã là một phần của tuổi thơ tôi, một phần rất đỗi tuyệt vời đánh thức cái tự giác trong tôi, giúp tôi hoàn thiện hơn. Nó là một con gà đã giúp tôi từ một con bé ngỗ ngược, ốm yếu và hay vòi vĩnh đã trở thành tự'giác, trở nên khỏe mạnh hơn bao giờ hết... ừ nhỉ, tôi đã từng có một con gà. (Bài làm của học sinh có sửa chữa) (Theo Phạm Thị Loan, Nguyễn Thị Hoa, Lê Thị Tâm Hảo - Sđd) Đề 2: Hăy kể lại một lần em mắc lỗi mà em rất ân hận. “Trong cuộc đời của mỗi con người không ai lại không có nhiều kỉ ' niệm vui và cả những kỉ niệm buồn, đối với em cũng vậy. Trong số những kỉ niệm của mình em nhớ nhất là lần em bị viêm phổi cấp, phải đi bệnh viện cấp cứu làm em phải nghỉ học mất một tuần làm cha mẹ phải lo lắng vất vả. Chuyện thế này. Ớ Sài Gòn làm gì có mùa đông, nhưng vào những ngày gần Nô- en khí trời dịu lại se se lạnh. Nô-en năm ấy trời lạnh hơn bình 1 thường. Buổi sáng ngủ dậy nhà đóng kín cửa không lạnh lắm nên em chỉ phong phanh một chiếc sơ mi đến trường. Trên đường đi thấy lành lạnh nhưng lỡ rồi lại sợ muộn giờ học nên em không quay về lấy áo lạnh nữa. Bước vào lớp em thấy bạn bè ai cũng cuộn mình trong chiếc áo ấm mà vẫn cứ xuýt xoa chỉ riêng mình em mặc áo sơ mi. Mọi người ồ lên thán phục: “Tâm giỏi quá! Cậu không lạnh à?”. “Được lời ' như cởi tấm lòng” mặc dù lạnh nhưng em vẫn làm cứng: “Trời này mà lạnh gì, tớ thấy bình thường!” Để chứng tỏ bản lĩnh anh hùng của mình giờ ra chơi em đứng ở cửa gió lùa, nơi mọi người né vì sợ lạnh. Em còn gọi một bạn trong lớp: “Nam ơi! Ra đây đứng mát lắm.” Bạn bè nhìn em thán phục, được thể em càng đứng lâu dù trong người cảm thấy ớn lạnh. Ngày hôm ấy đi học về, em thấy oải oải khó chịu, đến tối em sốt cao li bì, không biết trời đất gì nữa cả, đang đêm ba mẹ em phải đưa em đi bệnh viện cấp cứu. Cả nhà hốt hoảng lo lắng. Bác sĩ kết luận em bị viêm phổi cấp phải nằm viện và tiêm kháng sinh liều cao. Những ngày em nằm viện, mẹ phải nghỉ công việc ở cơ quan túc trực bên em, ba em phải thường xuyên vào ra đưa cơm nước, ba mẹ gầy xọp hẳn đi. Những đêm thức dậy thấy mẹ ngồi cạnh khuôn mặt mệt mỏi xanh xao, đôi mắt thâm quầng, sâu trũng mà em thấy thương mẹ quá chừng! Ân hận quá chừng! “Mẹ ơi! Tất cả là tại con, tại cái tính ngông nghênh của con mà làm cho ba mẹ phải khổ!” Em đã khóc nức nở. Mẹ vỗ về an ủi: “Chuyện đã lỡ rồi! Con đừng bận tâm nữa, gắng nhanh khỏe để ra viện là mẹ mừng rồi!” Bạn bè trong lớp đến thăm rất đông, cả cô giáo chủ nhiệm nữa. Em thật ngượng sợ mọi người nhắc chuyện cũ, nhưng chẳng thấy ai nhắc đến cả. Bạn bè còn chia nhau chép bài hộ em. Nam sún còn bảo em rằng: “Nhanh lên Tâm ơi! Cậu phải ra khỏi đây thôi, bốn bức tường này sao dễ thương bằng lớp mình được, vắng cậu lấy ai bày trò với tớ đây!” Cả bọn cười ồ! Em thấy sông mũi mình cay cay! Chúng nó đáng yêu quá. Một tuần sau em ra viện, trời vẫn còn se lạnh, bây giờ thì em không dấm chủ quan nữa rồi, em mặc ngay áo ấm để giữ sức khỏe. Một tuần nằm viện cái giá quá đắt để em rút ra bài học cho mình. Các bạn thân mến! Các bạn đã biết kỉ niệm buồn của mình rồi chứ, đừng ai dại dột như mình nữa các bạn nhé!” Đề 4: Nếu là người dược chứng kiến cảnh lão Hạc kể chuyện bán chó với ông giảo trong truyện của Nam Cao thì em sẽ ghi lại câu chuyện đó như thê nào? Tôi đang ngồi nhặt rau giúp bà giáo thì chợt thấy lão Hạc thất thểu bước vào nhà. Hình như tìm ông giáo thì phải. Lão Hạc người tuổi đã ngoài ngũ tuần, con trai lão đã đi làm ở đồn điền cao su, vợ mất sớm lại ốm đau liên miên. Song tính cũng lập dị. Đời thủa nhà ai có tiền mà không tiêu, có đất nhà không bán, sổng đói khát chả ai thương nổi. Vừa thây ông giáo bước ra chào, lão Hạc vội nói: Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ! À, cậu Vàng là con chó của lão Hạc. Đó cũng là một lí do để lão bị coi là quái dị. Trong cái thời đại này, đặc biệt đối với cái làng này, làm gì có ai mà lại nuôi chó để mà cưng nựng như lão cơ chứ. Có lần tôi sang nhà lão để xin mấy củ gừng, tôi thấy lão nựng con chó nào “cậu” này, “cậu” nọ, lại còn gắp cho nó ăn. Lão quý nó đến thế cơ mà. Sao tự dưng lại bán đi nhỉ? Ông giáo hỏi: Cụ bán rồi à? Bán rồi! Họ vừa bắt xong. Giọng lão nhừa nhựa, chứa đầy đau khổ. Ông giáo ngoái sang hỏi tiếp: Thế nó cho bắt à? Bỗng nhiên lão Hạc yên lặng một cách kì lạ. Tôi ngước lên nhìn lão. Dù không rõ lắm nhưng hình như lão đang khóc. Những giọt nước mắt đau khố. Nhìn lão mà tôi tựa như thấy những nếp nhăn trên mặt lão xô vào nhau và ép ra từ đó những giọt nước mắt hiếm hoi của một ông già, một người dạn dày trong vất vả, lam lũ. Mình khổ thì chả khóc, hơi đâu khóc vì con chó. Lão nói trong tiếng khóc uất ức, tức tưởi: Khôn nạn...! Nào nó có biết gì đâu! Nó thấy tôi gọi thì chạy ra. Rồi tôi cho nó ăn. Nó đang ăn thì thằng Xiên, thằng Mục chạy ra, tóm lấy cẳng sau nó mà dốc ngược lên. Hai thằng chỉ loay hoay một lúc đã trói được nó. Nó khôn lắm ông giáo ạ! Nó làm in như nó trách tôi: “A! Lão già tệ lắm. Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này à?”. Trời ơi, tôi già bằng này rồi mà còn nỡ tâm lừa một con chó... Tiếng nói của lão sao mà nghe chua cay, đau xót đến thế. Quả thực là lão đau khổ và cảm thấy nhục nhã vô cùng khi làm việc ấy. Bỗng dưng sao tôi như cảm thông với lão, hiểu rõ những điều lão đang làm. Ông giáo có vẻ rất thông cảm với lão. Ông rót một bát nước để trước mặt lão Hạc rồi khẽ an ủi: Đấy là cụ tưởng thế chứ nó chả biết gì đâu. Hơn nữa có ai nuôi chó mà chả bán hay giết thịt. Mà ta giết nó là hóa kiếp cho nó đấy cụ ạ! Lão Hạc đáp lại với giọng chua chát, mỉa mai: Ông giáo nói phải! Kiếp chó là kiếp khổ, thôi thì ta cứ hóa kiếp cho nó làm kiếp người. Có thế, may ra mới sung sướng hơn: Kiếp người như kiếp tôi nay chẳng hạn. Phải rồi, như kiếp lão, như kiếp tôi, ở cái thời này, con người sống có khác gì con chó. Nếu không phải khốn khổ vì vật chất thì cũng phải luồn cúi nhục nhã. Tự dưng tôi thấy đồng cảm với lão, với nỗi đau của lão vô cùng. Có lẽ ông giáo cũng nghĩ vậy. Ông giáo khẽ nắm bờ vai gầy của lão, bảo: Cụ chờ chút, tôi vào lấy ấm chè tươi thật đặc và mấy củ khoai vừa luộc. Uổng nước chè, hút điếu thuốc lào và ăn củ khoai nóng... thế là sướng. Tôi ra về tựa như cam nhận nỗi đau của lão Hạc. Phải rồi, tôi, lão, ông giáo... đều khốn khó, mòn mỏi. Phải làm gì đây cho cuộc đời tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn?” (Nguyễn Ngọc Thủy, lớp 8A1, Trường THCS Ngô Sĩ Liên, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) (Theo Hướng dẫn tập làm văn 8 - Vũ Nho Chủ biên)