Soạn Văn 8: Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác

  • Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác trang 1
  • Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác trang 2
  • Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác trang 3
  • Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác trang 4
Bài 15
Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác
Đập đả ở Côn Lôn
Ôn luyện về dấu câu
Thuyết minh về một thể loại văn học
VÀO NHÀ NGỤC QUẢNG ĐÔNG CẢM TÁC
Phan Bội Châu
I. KIẾN THỨC Cơ BẢN
• về tác giả: Phan Bội Châu {1867-1940), tên thuở nhỏ là Phan Văn San, tên hiệu chính là Sào Nam; người làng Đan Nhiệm, nay là xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Năm 33 tuổi, Phan Bội Châu đỗ Giải nguyên {đỗ đầu kì thi Hương). Ồng là một nhà yểu nước, nhà cách mạng lớn nhất của dân tộc ta trong vòng 25 năm đầu thế kỉ XX, từng xuất dương sang Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan đề mưu đồ sự nghiệp cứu nước. Phan Bội Châu cũng là một nhà văn, nhà thơ lớn, có sự nghiệp sáng tác khá đồ sộ.
« về tác phẩm: Tác phẩm của ông bao gồm rất nhiều thể loại, tất cả đều thể hiện lòng yêu nước, thương dân tha thiết; khát vọng độc lập, tự do và ý chí chiến đấu bền bỉ, kiên cường: Hải ngoại huyêt thư, Trùng quang tâm sử, Văn tế Phan Châu Trinh.
Hoàn cảnh sáng tác: Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác là một hài thơ Nôm nằm trong tác phẩm Ngục trung thư {Thư viết trong ngục) viết hằng chữ Hán, sáng tác vào đầu năm 1914, khi Phan Bội Châu bị bọn quân phiệt tỉnh Quảng Đông {Trung Qụốc) bắt giam. Ngục trung thư có thể xem là tập tự truyện đầu tiên của Phan Bội Châu, có ý nghĩa như một bức thư tuyệt mệnh, Phan Bội Châu làm bài thơ này bộc lộ cảm xúc của mình trong những ngày đầu mới vào ngục. Nhan đề bài thơ là do những người biên soạn sách về sau đặt.
Bằng giọng điệu hào hùng có sức lôi cuốn mạnh mẽ, vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác đã thể hiện phong thái ung dung đường hoàng và khí phách kiên cường bất khuất lên trên cảnh tù ngục khốc liệt của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu.
II. HƯỚNG DẪN ĐỌC - HlỂU VĂN BẢN
Câu 1. Phân tích cặp câu 1-2, tìm hiểu khí phách và phong thải của nhà chí sĩ khi rơi vào vòng tù ngục.
+ Hoàn cảnh thay đổi:
Thông thường bị tù đày đọa là lúc người anh hùng “lỡ bước” “sa cơ” tù đày làm nhụt đi ý chí của con người: “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (một ngày ngồi tù bằng nghìn thu ở ngoài), tú đày là mang đến sự cô đơn, đau đớn.
+ Khí phách không đổi:
Đối với Phan Bội Châu, ông xem ngồi tù chỉ là trạm nghĩ của cuộc mỏi chân “chạy mỏi chân thì hẵng ở tù” còn khí phách không thay đổi “vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu”.
vẫn điệp từ khẳng định bản lĩnh anh hùng trước sau như một không gì lay chuyển.
Hào kiệt: Người có tài năng, chí khí phi thường, phong lưu. Sự ung dung đường hoàng thể hiện phong thái uy nghi của bậc anh hùng dù ở chốn lao tù.
Câu 2. Đọc lại hai cặp câu 3-4, em thấy giọng điệu có gì thay đổi so với hai câu thơ trên? Vì sao? Lời tậm sự ở nay có ý nghĩa như thế nào?
+ Giọng thơ thay đổi: từ bay bổng trầm hùng chuyển sang trầm lắng suy tư, dẫu sao người anh hùng cũng phải đối diện với thực tế nghiệt ngã của chốn lao tù và khi con đường hoạt động cách mạng tạm gián đoạn.
+ Ý nghĩa lời tâm sự:
Khách không nhà: Cuộc đời hoạt động cách mạng đầy gian truân, bôn ba lênh đênh khắp năm châu bôn biển, phải xa gia đình, quê hương và những người thân yêu.
Người có tội là luôn bị bọn giặc theo dõi ráo riết để bắt bớ truy nã vì “trung với nước hiếu với dân” (Hồ Chí Minh).
Biện pháp đối chặt chẽ cân xứng:
Trong bốn biển Khách không nhà
Giữa năm châu Người có tội
• Hình ảnh kì vĩ hào hùng, “cái tội” ấy và “người khách ấy” trở
nên thật cao đẹp.
Câu 3. Em hiểu thế nào về ỷ nghĩa của cặp câu 5-6? Lối nói khoa trương ở nay có tác dụng gì trong việc biểu hiện hình ảnh người anh hùng, hào kiệt này?
+ Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế "ì Nghệ thuật tương đốì chặt chẽ làm khẩu khí câu thơ
mở miệng cười tan cuộc oán thù trở nên manh mẽ
+ Bồ kinh tế là hoài bão tự muôn cứu đời, cứu nước, cứu dân, hai tay ôm chặt thật mạnh mẽ quyết liệt, là lời thề chiến đấu đến cùng.
Cuộc oán thù là cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược, thế mà có thể mở miệng cười tan cái cười kia thật ngạo nghễ, thật hào sảng biết bao.
Câu 4. Hai câu cuối là kết tỉnh tư tưởng của toàn bài thơ. Em cảm nhận được điều gì từ hai câu thơ ấy?
Thân ấy hãy còn còn sự nghiệp.
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.
+ Điệp từ còn thể hiện niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng mặc dù bất cứ hoàn cảnh nào: Thân còn sự nghiệp còn, lời thề thầm lặng thiêng liêng của một bậc anh hùng suốt đời vì dân vì nước.
+ Câu thơ kết là lời thách thức với thực tế, nhà tù khắc nghiệt trước mắt và những chông gai khó khăn ở phía trước. Tâm thức của người anh hùng vượt lên trên sự gian khổ, và sự bạo tàn của kẻ thù.
Tóm lại, bằng giọng điệu hào hùng có sức lôi cuốn mạnh mẽ, bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác là bức chân dung tự họa con người tinh thần của Phan Bội Châu với phong thái ung dung, đường hoàng và khí phách kiên cường, bất khuất vượt lên trên cảnh tù khốc liệt để tự an ủi mình giữ vững lí tưởng, niềm tin và khát vọng cứu nước cứu dân.
(Vũ Dương Quỹ)
TƯ LIỆU THAM KHẢO
“Đây là bài thơ tỏ chí, khẳng định chí hướng, lí tưởng của mình. Câu vào bài rất tự nhiên, pha chất tự trào, đùa tếu, biểu hiện ngay thái độ coi thường hiểm nguy, tinh thần không nao núng của tác giả:
“Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu.
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.”
Hào kiệt là kẻ tài trí hơn người. Sách Hoài Nam tử xưa nói trí hơn vạn người gọi là anh, trí hơn nghìn người gọi là tuấn, trí hơn trăm người gọi là hào, trí hơn mười người gọi là kiệt. Phong lưu vừa có nghĩa là anh hùng, tuấn kiệt. Câu đầu tiên có nghĩa là hoàn cảnh có thay đổi, nhưng phong độ anh hùng, tư thái phong lưu vẫn không thay đổi.
“Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,”
Không phải là Phan Bội Châu đã thấy mỏi chân, mà là giả định như một cuộc dừng chân sau chặng đường dài mỏi mệt, coi như một việc bình thường-trong cuộc sống.
Đó là cách biến việc nghiêm trọng thành việc bình thường của nhà cách mạng để tự động viền, an ủi.
Hai câu tiếp theo tự nói về cảm nhận thân thế của mình:
“Đã khách không nhà trong bôn biển Lại người có tội giữa năm châu.”
Người Trung Quốc có câu thành ngữ “Tứ hải vi giai”, nghĩa là xem bốn biển là nhà. Tình cảnh của Phan Bội Châu còn bi đát hơn: Ông đã bỏ nhà xuất dương hoạt động, làm khách không nhà trong bôn biển - nơi nào cũng là xa lạ, không có chỗ dựa, cực tả nỗi phiêu bạt, lênh đênh. Người có tội là người bị theo dõi, truy nã ráo riết, nơi nào cũng có nguy cơ bị bắt bớ, không nơi nào được yên ổn.
Đem câu này đôi chiếu với hai câu trước mới thấy hết cái khí phách anh hùng của tác giả: dù hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt vẫn giữ vững chí khí, tác phong hào kiệt.
(Theo Trần Đình sử, Dọc văn học văn)