Soạn Văn 9: Bài thơ về tiểu đội xe không kính

  • Bài thơ về tiểu đội xe không kính trang 1
  • Bài thơ về tiểu đội xe không kính trang 2
  • Bài thơ về tiểu đội xe không kính trang 3
  • Bài thơ về tiểu đội xe không kính trang 4
  • Bài thơ về tiểu đội xe không kính trang 5
  • Bài thơ về tiểu đội xe không kính trang 6
  • Bài thơ về tiểu đội xe không kính trang 7
  • Bài thơ về tiểu đội xe không kính trang 8
  • Bài thơ về tiểu đội xe không kính trang 9
BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH
Phạm Tiến Duật
I. KIẾN THỨC Cơ BẢN
• về tác giả: Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở tỉnh Phú Thọ. Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 1964, Phạm Tiến Duật gia nhập quân đội, hoạt động trển tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những gương mặt tiểu biểu của thế hệ các nhà thơ trề thời chống Mĩ cứu nước.
Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
Thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.
• Vê tác phẩm: Bài thơ về tiểu đội xe không kính nằm trong chùm thơ Phạm Tiến Duật dược tặng giải Nhất cuộc thi thơ của háo Văn nghệ năm 1969 và được đưa vào tập thơ vầng trăng quầng lửa của tác giả.
Bài thơ của Phạm Tiến Duật dã khắc họa một hình ảnh dộc đáo: những chiếc xe không kính. Qua đó, tác giả khắc họa nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì chống Mĩ, với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến dấu giải phóng miền Nam.
Tác giả đã đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường, ngón ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khoẻ khoắn.
HƯỚNG DẪN ĐỌC - Hiểu VẤN BẢN
Câu 1. Nhan đề bài thơ có gì khác lạ? Một hình ảnh nổi bật trong bài thơ là những chiếc xe không kính. Vì sao có thể nói đó là những hình ảnh dộc đảo?
+ Nhan đề bài thơ: nhan đề bài thơ rất lạ, hình như quá dài so với nhan đề của những bài thơ khác. Không chỉ gợi lên trong ta hình ảnh những chiếc xe không mấy bình thường, không có kính, và cho ta hình dung được phong thái ngang tàng ngạo nghễ của chủ nhân những chiếc xe ấy.
+ Chiếc xe không kính, một hình ảnh độc đáo:
Không có kính khôìig phải vì xe không có kính Bom giật bom rung kính vở đi rồi.
Hai câu thơ vừa miêu tả, vừa lí giải nguyên nhân dẫn tới những chiếc xe không kính, tất cả là do bom đạn của kẻ thù “bom giật, bom rung” hết trận này đến trận khác, và đâu chỉ không kính, còn không có nhiều thứ khác.
Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe thùng xe có xước
Cứ sau mỗi trận bom xe lại bị rơi rụng đi một bộ phận thiết yếu để rồi có một thứ như là chứng tích: thùng xe có xước. Ta cứ ngỡ rằng rơi rụng hết như thế những chiếc xe sẽ trở thành vô dụng, thế nhưng thật cứ thay xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước, vẫn cứ lại đi lại đi cho trời xanh hơn. Những chiếc xe không kính ấy là thước đo của lòng dũng cảm và là bằng chứng khóc liệt của chiến tranh.
Câu 2. Những chiếc xe không kính đã làm nổi bật hình ảnh người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Em hãy phân tích hình ảnh người lính láỉxe trong bài thơ.
Những chiếc xe càng cà tàng bao nhiêu thì càng góp phần làm nổi bật vẻ đẹp hình ảnh người chiến sĩ lái xe bấy nhiêu:
+ Tư thê hiên ngang dũng cảm:
Bom giật bom ruĩig kính vỡ đi rồi.
Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng.
Chiến trường Trường Sơn đầy bom là bom, thế nhưng bất chấp tất cả dáng điệu tư thế của những người chiến sĩ vẫn cứ ung dung hiên ngang. “Hai tiếng ung dung vừa gợi hình vừa tả được thái độ tự tin và vẻ phớt đời coi thường bom đạn của người chiến sĩ lái xe” (lời bình của nhà thơ). Trong cái nhìn bình thản đến lạ, bom nổ mặc bom, đường ta ta cứ đi, xe ta ta cứ chạy đẹp biết bao.
+ Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn: những chiếc xe không kính đã dẫn đến rất nhiều hậu quả gió xoa vào mắt đắng, bụi phun tóc trắng như người già, mưa tuôn mưa xối như ngoài trời và cả bom rơi và bom rơi. Thế nhưng họ bất chấp tất cả, bụi mặc bụi, mưa mặc mưa, bom mặc bom những chiếc xe vẫn cứ chạy vẫn tiếp hàng đều đặn cho tiền tuyến không ngừng không nghĩ. “Một tiếng “ừ” quả quyết, ngắn gọn bất chấp tất cả”.
+ Niềm lạc quan và tình đồng đội thắm thiết: trong gian khổ khó khăn là thế, bụi phun nhiều là thế mà nụ cười vẫn nở trên môi người chiến sĩ. Họ đã biến những khuyết điểm những cái thiếu thôn của chiếc xe thành ưu điểm, cái kính vỡ càng dễ hơn để bắt tay đồng đội.
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Và bụi đầy tóc trắng như người già kia đã đưa đến trận cười ha ha một cách thoải mái.
+ Ý chí chiến đấu vì miền Nam:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chi cần trong xe có một trái tim.
Hình ảnh khép lại bài thơ thật đẹp, trái tim là điều quyết định tất cả. Trái tim yêu nước, trái tim căm thù giặc, trái tim rực lửa anh hùng ấy là biểu hiện cho ý chí chiến đấu đến cùng của người chiến sĩ vì Tổ quốc, vì miền Nam thân yêu.
Câu 3. Em có nhận xét gì về ngôn ngữ, giọng điệu của bài thơ này? Những yếu tố đó đã góp phần như thế nào trong việc khắc họa hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn?
+ Ngôn ngữ, giọng điệu bài thơ giàu tính khẩu ngữ tự nhiên: ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo, cười ha ha. Giọng điệu bài thơ không mềm mại mà gân guốc cứng cỏi, mạnh mẽ.
+ Ý nghĩa', ngôn ngữ và giọng điệu ấy góp phần thể hiện sự ngang tàng hóm hỉnh, trẻ trung của những người lính lái xe.
Câu 4. Cảm nghĩ của em về thê hệ trẻ thời khảng chiến chông Mĩ qua hình ảnh người lính trong bài thơ? So sánh hình ảnh người lính ở bài thơ này và ở bài “Dồng chí”?
+ Cảm nghĩ về hình ảnh người lính: qua bài thơ ta thấy những người lính trong kháng chiến chống Mĩ là những con người thật gan dạ, dũng cảm, bất chấp khó khăn, gian khổ, một lòng chiến đấu vì Tổ quốc. Đồng thời những người chiến sĩ ấy còn là những con người trẻ trung tinh nghịch, hóm hỉnh, yêu đời biết bao nhiêu. Họ đã để lại cho chúng ta ấn tượng đẹp về anh bộ đội cụ Hồ.
+ So sánh với hình ảnh người lính trong bài thơ “Đồng chí”:
Giống nhau', hình ảnh người lính qua hai bài thơ đều thể hiện những phẩm chát tốt đẹp của anh bộ đội cụ Hồ đó là yêu nước, căm thù giặc, dũng cảm, coi thường gian khó và tình đồng đội thắm thiết.
Khác ĩihau'. những người lính trong bài thơ Tiểu đội xe không kính chát trẻ nhiều hơn, hóm hỉnh hơn, phải chăng đó cũng là sự phát triển theo tầm vóc thời đại.
HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Câu 1. Học thuộc lòng bài thơ.
Câu 2. Những cảm giác, ấn tượng của người lái xe trong chiếc xe không kính trên dường ra trận đã được tác giả diễn tả rất cụ thể, sinh động. Em hãy phân tích khổ thơ thứ hai để thấy rõ điều đó?
Nhìn thấy gió xoa vào mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái.
Đoạn thơ tràn ngập những hình ảnh: gió, con đường, sao trời và cánh chim. Gió xoa vào mắt đắng, ý thơ thật lạ. Gió xoa chứ không phải là gió thổi, sự tinh nghịch của gió, gió đùa giỡn với con người. Mắt đắng, mắt đầy bụi nước mắt chảy vào trong đắng chát những lúc ấy người chiến sĩ không nhìn con đường bằng mắt nữa mà nhìn bằng trái tim mình. Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim, câu thơ vừa diễn tả được cảm giác của những chiêc xe đi thật nhanh vừa thể hiện được tấm lòng yêu nước thiết tha của những người chiến sĩ. Nhưng thi vị nhất là hình ảnh: Thấy sao trời và đột ngột cánh chim - Như sa như ùa vào buồng lái. Dường như cả thiên nhiên vạn vật cũng bay theo các anh ra chiến trường. Tâm hồn của những người lính thật lãng mạn biết bao.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
Xe không kính - biểu tượng thách thức sự tàn phá, huỷ diệt. Nhưng không sự tàn phá nào lay chuyển được tinh thần các chiến sĩ lái xe.
Cả bài thơ là lời nói, cảm xúc của người chiến sĩ lái xe trên con đường xe chạy liên tục. Thử thách ngày càng tăng nhưng tốc độ và hướng đi không thay đổi. vẫn là khẳng định tinh thần bất khuất quyết thắng của quân đội ta, nhưng Phạm Tiến Duật đã đem lại nhiều hình ảnh mới và giọng điệu mới: trẻ trung, tinh nghịch, ngang tàng mà kiên định. Bài thơ đâu chỉ nói về tiểu đội xe không kính, nó phản ánh cả khí thế quyết tâm giải phóng niềm Nam của toàn quần, toàn dân ta, khẳng định con người mạnh hơn sắt thép.
(TheoTrần Đình sử, Đọc văn học văn)
Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mĩ. Anh từng cầm súng chiến đấu và công tác trong đội ngũ những chiến sĩ vận tải dọc đường Trường Sơn, chở vũ khí, quân trang từ hậu phương lớn ra tiền tuyến lớn. xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Mà lòng phơi phới dậy tương lai. Niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra trận lúc bấy giờ như ánh sáng chói chang, như gió mát lồng lộng phả vào tâm hồn nhà thơ - chiến sĩ, khiến thơ Phạm Tiến Duật có một giọng điệu thật khoẻ khoắn, tự nhiên, tràn trề sức sông, rất tinh nghịch, tươi vui và giàu suy tưởng. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm tiêu biểu nhát của giọng thơ, hồn thơ ấy. Không rõ nha thơ đã từng bao nhiêu lần trực tiếp cầm lái, hay ngồi trong ca-bin bên cạnh người lái, mà ngôn ngữ, nhạc điệu, cảm hứng và suy nghĩ trong bài lại chân thực, sông động đến như vậy. Tất cả cứ hiển hiện hồn nhiên, trực diện ngay trước bạn đọc: những chiếc xe không kính, cả tiểu đội xe, tiểu đội lính vận tải vui vẻ, tếu táo mà thật đĩnh đạc, hiên ngang, can đảm... Mở đầu bài thơ là một hình ảnh trớ trêu - “xe không có kính”. Kết thúc là một ý tưởng bất ngờ - “chỉ cần trong xe có một trái tim”. Phải chăng, tiểu đội xe không kính ấy lăn bánh thông đường được mau lẹ là nhờ...
Những trái tim cầm lái? Chuyện thật vô lí? Xin hãy lắng nghe lời người chiến sĩ lái xe, hãy đọc thơ và suy ngẫm...
Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, hom rung kính vỡ đi rồi
Lời kể, hay lời giới thiệu đoàn xe? Ngôn ngữ mộc mạc, nhịp điệu khoan thai mà gợi tả rõ nét. Cứ y như một đoàn xe lừng lững tiến lại. Những chiếc xe kì lạ “Không có kính chắn gió” - mà thật anh hùng, đang vượt qua những chặng đường nguy hiểm quân thù đánh phá ác liệt - “bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi” - Trên những chiếc xe ấy, người chiến sĩ đang vững tay lái. Vừa nhân ga cho xe lăn bánh ra trận, các anh vừa kể chuyện về mình, về đồng đội:
Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con dường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa, như ùa vào buồng lái...
Đó là những câu thơ tả thực, sự thực chính xác đến từng chi tiết. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, xe lái chạy nhanh, nên người lái phải đôi mặt với biết bao khó khăn nguy hiểm. Nào là gió xoa vào mắt đắng. Nào là con đường chạy thẳng vào tim rồi sao trên trời, rồi chim dưới đất đột ngột như sa, như ùa vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình. Dường như chính nhà thơ cũng đang cầm lái, hãy ngồi trong buồng lái của những chiếc xe không kính nôn câu chữ mới sinh động, cụ thể, đầy ấn tượng, gợi được cảm giác chân thực dường ấy. Cảm giác, ấn tượng căng thẳng, đầy thử thách. Song người chiến sĩ không run sợ, hoảng hôt. Trái lại, tư thế các anh vẫn hiên ngang, tinh thần các anh vẫn vững vàng... Các anh vẫn Ung dung buồng lái ta ngồi - Nhỉn đất, nhìn trời, nhìn thẳng... Hai câu thơ có nhịp thật cân đôi: 2/2/2 và 2/2/2. Đó là sự cân bằng của chiếc xe đang lăn bánh, sự thanh thản, bình tĩnh của người lái. “Nhìn đâ't, nhìn trời, nhìn thẳng... Nhìn thây, nhìn thấy... Thây...”. Những điệp từ ây cứ nhấn đi nhân lại, biểu hiện sự tập trung cao độ của người lái. Vậy đấy, hai khổ thơ mở đầu tả thực những gian khổ khó khăn mà người chiến sĩ lái xe Trường Sơn đã trải qua. Trong khó khăn, các anh vẫn bình tĩnh, tự tin, nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm, gan góc đưa hàng ra tiền tuyến. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh bình thường. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun vút bươn trải trên đường. Có chỗ nhịp nhàng, trong sáng như văng vẳng tiếng hát — vút cao, vui vẻ.
vẫn cái âm điệu nhẹ nhàng, trong sáng ấy, hai khổ thơ tiếp sau biểu hiện rõ nét hơn tâm tư, tình cảm của người chiến sĩ:
Không có kính, ừ thì có bụi Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần thgy, lái trâm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi
Nếu ở hai khố thơ trên là những cảm giác về khó khăn thử thách - dù sao cũng vẫn mơ hồ - thì đến đây, thử thách, khó khăn ập tới cụ thế’, trực tiếp. Đó là bụi đường phun trắng và mưa tuôn, mưa xối - hậu quả tất yếu của những chiếc xe mất kính bảo vệ. Trước những thử thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao núng. Các anh càng bình tĩnh, dũng cảm hơn. “Không có kính, ừ thì có bụi... không có kính, ừ thì ướt áo”. Những câu thơ như lời nói thường, nôm na mà cứng cỏi, toát ra một thái độ. Đó là sự châ'p nhận, sự thách thức trở lại và cả những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt khó, hiểm nguy:
... Chưa cần rửa, phỉ phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha ... Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi...
Cấu trúc các câu thơ vẫn cân đôi, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đôi của những bánh xe lăn. Thanh điệu phối hợp khá linh hoạt, thanh bằng - trắc (phì phèo chăm - điếu thuốc), trắc - bằng (mặt lấm - cười ha ha) rồi lại bằng - trắc (trăm cây số nữa). Và cuối đoạn là câu thơ bảy tiếng, sáu thanh bằng (Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi) gợi một cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh thản. Đó là khúc nhạc vui sôi nổi của tuổi mười tám đôi mươi. Nhạc vui hài hoà trong những hình ảnh hóm hỉnh: phì phèo châm diếu thuốc - nhìn nhau mặt lấìn cười ha ha và một ý nghĩ táo tợn: chưa cần thay, lái trăm cây sô nữa làm cho thơ rộn rã, sôi động, luôn luôn hối hả, như sự sôi động, hối hả của đoàn xe trên đường đi tới.
Song, cũng có lúc đoàn xe ấy dừng lại. Ây là lúc ngồi nghỉ hoặc tới đích, đồ’ hàng. Hai khổ thơ thứ năm và thứ sáu miêu tả những cuộc gặp gỡ, vui vầy trong không khí đoàn kết, trong tình đồng chí, đồng đội thật cảm động:
Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội...
... Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát dũa nghĩa là gia đỉnh ấy...
Hình tượng người chiến sĩ lái xe thêm một nét đẹp nữa. Đấy là tình cảm gắn bó, chia sẻ ngọt bùi. Khi hành quân, các anh động viên, chào hỏi nhau trong cảnh ngộ độc đáo: Bắt tay qua cửa kính vỡ. Lúc cắm trại, các anh trò chuyện, ăn uống, nghỉ ngơi thoải mái, xuềnh xoàng, nhường nhịn nhau như anh em ruột thịt: chung bát, chung đũa - võng mắc chông chênh... Án uống, nghỉ ngơi, trò chuyện... song cũng chỉ trong một thoáng chóc. Để rồi, lại tiếp tục hành quân: Lại đi, lại đi trời xanh thêm... Câu thơ bay bay, phơi phới, thật lãng mạn, thật mộng mơ.
Không có kính, rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim...
Khố’ thơ cuối cùng, vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói thường, như văn xuôi. Vậy mà nhạc điệu, hình ảnh, ngôn ngữ rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng, vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của những người chiến sĩ vận tải Trường Sơn những năm đánh Mĩ. Bốn dòng thơ dựng hai hình ảnh đốì lập đầy kịch tính, rất bất ngờ, thú vị.
Hai câu đầu dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống, do đường trường gây ra: xe không kính, không đèn, không mui, thùng xe xước vỡ... Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần những thử thách khô'c liệt. Hai dòng ngôn ngữ ngắt làm bôn khúc: không có kính/rồi xe không có đèn ỉ không có mui xe ỉ thùng xe có xước như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai, bom đạn, bốn khúc cua vòng, rẽ ngoặt... trêu ngươi, chọc tức đoàn xe.
Hai câu cuối:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim
Âm điệu đối chọi lại, trôi chảy, êm ru. Hình ảnh đậm nét. Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở hướng ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam”, vì cuộc chiến đấu tranh giành độc lập, thông nhất cho cả nước. Đặc biệt, toả sáng chói ngời cả đoạn thơ, bài thơ là hình ảnh “trong xe có một trái tim”. Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ phẩm chất anh hùng của mỗi người cầm lái, tích tụ, đọng kết lại ở cái “trái tim” gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này. Phải chăng chính trái tim con người đã cầm lái? Tình yêu Tố quốc, tình thương đồng bào, đồng chí ở miền Nam đau khố đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vận tải vượt khó khăn, gian khổ, luôn lạc quan, bình tĩnh nắm chắc vô lăng, nhìn thật đúng hướng để đưa đoàn xe khẩn trương tới đích? Ngữ điệu của câu thơ: Chỉ cần trong xe có một trái tim thật nhẹ nhõm, song khả năng khắc hoạ hình tượng nhân vật và khơi gợi lí luận triết lí thật đắm sâu, trĩu nặng. Ân sau ý nghĩa “trái tim cầm lái”, câu thơ còn muôn hướng người đọc về một chân lí của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ... mà là con người - con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường, dũng cảm, niềm lạc quan và một niềm tin vững chắc. Có thể nói, cả bài thơ, hay nhất là câu thơ cuối cùng này. Nó là “nhãn tự”, là “con mắt của thcT, bật sáng chủ đề, toả sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong thơ.
Trở lại với phong cách thơ Phạm Tiến Duật như phần đầu đã nêu, đọc bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính, cũng như một vài tác phẩm tiêu biểu khác của anh - bài Lửa đèn, Trường Sơn đông, Trường Sơn tây, Nhớ... chúng ta thật thú vị, nhận ra cái chất giọng rất trẻ, rất lính của bài thơ. Chát giọng ấy bắt nguồn từ sức trẻ, từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính nhà thơ đã sông. Do đó không phải ngẫu nhiên tác giả đặt cho tên tác phẩm là Bài thơ về.... Bài thơ, chất thơ toả ra từ thực tế cuộc chiến đấu, từ niềm vui sống của con người thời đại. Chất “thơ ấy đi từ sự giản dị của ngôn từ, sự linh hoạt của nhạc điệu sự và sáng tạo bất ngờ của hình ảnh, chi tiết,..., để khắc hoạ đậm nét những vẻ đẹp phẩm giá của con người, và cuối cùng cất bổng lên, hoà nhập với âm hưởng sử thi và cảm hứng lãng mạn của cả giai đoạn vãn học Việt Nam trong ba thập kỉ chiến tranh chông xâm lược 1945 đến 1975.
Vũ Dương Quỹ