Soạn Văn 9: Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục)

  • Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục) trang 1
  • Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục) trang 2
  • Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục) trang 3
  • Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục) trang 4
  • Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục) trang 5
  • Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục) trang 6
  • Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục) trang 7
BÀI 4
Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục)
Cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp
Sự phát triển của từ vựng
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
KIẾN THỨC Cơ BẢN
Tác giả: Nguyễn Dữ (?-?), sống vào thế kỉ XVI, quê ở Thanh Miện, Hải Dương - là học trò của Nguyễn Binh Khiêm. Ong là người tài cao học rộng nhưng gặp lúc triều đình nhà Lê khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh tranh giành quyền lực, nội chiến kéo dài nên làm quan chỉ có một năm rồi cáo quan về ở ẩn nuôi mẹ già.
Truyền kì mạn lục: viết hằng chữ Hán khai thác các truyện cổ dân gian và các truyền thuyết lịch sử, dã sử của Việt Nam. Nhân vật chính là những người phụ nữ đức hạnh khát khao cuộc sống hình yên hạnh phúc nhưng bị các thế lực tàn bạo và lễ giáo khắc nghiệt xô đẩy họ vào cảnh ngộ éo le oan khuất. Loại nhân vật khác là những trí thức có tâm huyết nhưng bất lực trước thời cuộc không chịu trói mình vào vòng danh lợi chật hẹp.
Chuyện người con gái Nam Xương: là một trong hai mươi truyện ngắn của tác phẩm “Truyền kì nạm lục”. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tăm của Vũ Nương, tác phẩm thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ.
Tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật dựng truyện, miêu tả nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình.
HƯỚNG DẪN ĐỌC - Hiểu VĂN BẢN
Câu 1. Tìm bố cục truyện.
+ Phần một (từ đầu đến xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ)', nỗi oan khuất của Vũ Nương và cái chết oan nghiệt của nàng.
+ Phần hai (còn lại): cảnh sông của Vũ Nương ở thuỷ cung và nỗi oan tình được giải.
Câu 2. Nhân vật Vũ Nương được miêu tả trong hoàn cảnh nào? Từng hoàn cảnh Vũ Nương đã bộc lộ những đức tính gì?
Hoàn cảnh
Vũ Nương được miêu tả
Phẩm chất của nàng
Khi mới về nhà chồng, Trương Sinh có tính đa nghi, phòng ngừa hết sức.
Là người vợ thảo hiền, nết na', chồng đa nghi hay ghen nhưng nàng vẫn rất mực giữ gìn khuôn phép, vợ chồng luôn hoà thuận, sum vầy.
Một mình ở nhà chăm sóc mẹ già, nuôi dạy con nhỏ.
Là người con dâu hiếu thảo, người vợ đảm đang', chăm sóc mẹ chồng ân cần hết mực, khiến cho bà vô cùng cảm động, ma chay cho mẹ chồng như mẹ đẻ của mình.
Ba năm Trương Sinh đi lính biền biệt.
Là người vợ chung thuỷ chờ chồng không màng danh lại'. Ba năm chồng đi lính nàng không nguôi thương nhớ, không hề “ngỏ liễu tường hoa”, không hề màng danh lợi phú quý vinh hoa chỉ mong chồng ngày trở về mang theo hai chữ bình yên thế là đủ.
Câu 3. Vì sao Vũ Nương phải chịu nỗi oan khuất? Từ dó em cảm nhận được điều gì về thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến?
+ Nguyên nhân trực tiếp:
Do đứa con lên ba không phân biệt được cái bóng trên tường với một người thật.
Do sự ghen tuông đến mất cả lí trí của Trương Sinh dẫn đến những hành động hồ đồ kết tội người vợ thảo hiền một cách vô cớ mà không cho nàng thanh minh, bỏ ngoài tai tất cả những lời bênh vực của hàng xóm láng giềng.
+ Nguyên nhân sâu xa:
Tư tưởng trọng nam khinh nữ của xã hội phong kiến, bênh vực bảo vệ quyền lợi cho người đàn ông. Vì vậy mà Trương Sinh có thể “mắng nhiếc, đánh đuổi vợ ra khỏi nhà” mà không bị lên án, kết tội.
Nhưng có lẽ nguyên nhân cơ bản nhất mà Nguyễn Dữ muốn đề cập đến và phản ánh đúng thực tại xã hội lúc bấy giờ đó là chiến tranh phi nghĩa. Chính chiến tranh phi nghĩa đã gây ra sự xa cách giữa vợ chồng Trương Sinh dẫn tới sự hiểu lầm đáng tiếc. Nếu Trương Sinh không phải đi lính thì Vũ Nương đâu có phải chỉ bóng mình trên vách cho con trẻ để vơi bớt nỗi nhớ thương và bà mẹ Trương Sinh đâu đến nỗi vì thương nhớ con quá mà chết.
+ Thân phận người phụ nữ: qua số phận của Vũ Nương ta thấy thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến không được coi trọng. Họ có thể bị kết oan bất cứ lúc nào mà không ai có thể bênh vực bảo vệ.
Câu 4. Hãy nêu nhận xét về cách dẫn dắt tình tiết truyện, những lời trần thuật và những lời đối thoại trong truyện.
+ Cách dẫn dắt truyện: theo trình tự thời gian, thứ tự trước sau không bị đảo ngược, việc gì xảy ra trước kể trước, việc gì xảy ra sau kể sau; khác với những truyện ngắn hiện đại quá khứ hiện tại đan xen.
+ Tình tiết truyện được đan cài rất khéo: trong đoạn đầu giữa những câu văn bình lặng có gợi lên một chi tiết: song Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Chi tiết đó có tính chất phục bút cho sự việc xảy ra về sau bởi tính hay ghen đó mà Sinh đã nghi oan cho vợ, đánh đuổi vợ ra khỏi nhà.
+ Giọng văn trần thuật: mang tính khách quan, tác giả cố gắng giữ giọng văn đều đều tạo nhịp điệu cho thiên truyện.
+ Lời đôi thoại: mang tính bất ngờ, đột biến, tình tiết dồn dập đẩy sự việc lên tới cao trào đỉnh điểm. Đặc biệt là cuộc đối thoại giữa Trương Sinh và đứa bé.
Ồ hay ông cũng là cha tôi ư?
Trước đây có một người đàn ông đêm nào cũng đến.
- Mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi.
-» Tạo bước ngoặc mâu thuẫn bắt đầu hình thành.
-» Từ ngạc nhiên đặ đến ngờ vực: chồng vắng nhà có người đàn ông đêm nào cũng đến rõ ràng là bất thường -> Trương Sinh lại càng có bằng chứng môĩ nghi ngờ đã được khẳng định.
- Chẳng bao giờ bế Đản cả. -> Hai kẻ “gian phu dâm phụ” bỏ rơi con trẻ.
Chính lời đối thoại đó đã làm cho cơn ghen của Trương Sinh bùng nổ mối nghi ngờ càng sâu, không gì gỡ ra được và sau đó cũng chính lời đứa bé đã gỡ nút cho nỗi hàm oan của Vũ Nương. Nó chỉ là cái bóng của chàng trên vách: cha Đản lại đến kia kìa.
Câu 5. Tìm những yếu tố kì ảo trong truyện, đưa những yếu tô' kì ảo vào một câu chuyện quen thuộc, tác giả nhằm thể hiện điều gì?
+ Những yếu tố kì ảo trong truyện:
- Phan Lang nằm mộng thả con rùa mai xanh, Phan Lang chạy trôn giặc Minh ra bể bị đắm thuyền thi thể dạt vào một động rùa dưới thuỷ cung được Linh Phi đón tiếp long trọng dưới thuỷ cung được Xích Hỗn rẽ nước đưa trở lại trần.
Hình ảnh Vũ Nương trở lại trần thế ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xa cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện...
+ Ý nghĩa:
Tạo ra thế giới lung linh huyền ảo hấp dẫn, kích thích trí tưởng tượng của người đọc.
Tạo nên kết thúc có hậu, giảm độ căng thẳng, làm dịu nỗi đau ở người đọc, không làm mất tính bi kịch của thiên truyện (Trịnh Thu Tiết)
Khao khát về cuộc sống công bằng hạnh phúc cho những con người tốt đẹp: Những con người như Vũ Nương phải dược trả lại danh dự, họ không bao giờ chết, họ được sống trong một thế giới lộng lẫy sang trọng vĩnh hằng.
Thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả đối với thân phận người phụ nữ bất hạnh. Ông mong muôn họ có một cuộc sống hạnh phúc.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
Chuyện người con gái Nam Xương (Nam Xương nữ tự truyện) là một trong 11 truyện viết về đề tài phụ nữ của Nguyễn Dữ. Vũ Thị Thiết là nhân vật hoàn toàn có thật. Ngày nay, tại Nam Xương (tỉnh Nam Định) còn đền thờ nàng. Kể từ ngày nàng mất đến nay đã gần năm thế kỉ, bao thế hệ từ Lê Thánh Tông - vị vua anh minh, văn võ kiêm toàn đến các nhà khoa bảng “cưỡi đầu thiên hạ đã ba phen” như Nguyễn Khuyến... đều không khỏi rơi lệ xót thương cho thân phận nàng và đã gửi gắm niềm thương cảm của mình vào những bài thơ đề vịnh “miếu vợ chàng Trương”.
Cuộc đời của Vũ Nương tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã kịp làm tròn nghĩa vụ của một phận đàn bà: làm con, làm dâu, làm vợ và làm mẹ. Mọi nỗi gian lao vất vả: khi sinh đẻ không ai đỡ đần, một thân vừa nuôi con thơ, vừa chăm sóc thuốc thang cho mẹ chồng già yếu..., rồi khi mẹ chồng nằm xuống lại một mình chạy việc ma chay tế lễ, chôn cất... Tất cả những công việc đó, đôì với nàng, nào đáng kể chi, miễn là có ngày hội ngộ, chồng sẽ trở về. Đến công danh, nàng cũng chả màng. Chồng ra trận nàng giãi bày nỗi niềm của mình: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu... chỉ xin ngày về được mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Mong mỏi cả cuộc đời nàng là “cái thú vui nghi gia nghi thất”, vự chồng sum họp, con cái đề huề, được làm vợ, làm mẹ.
Sau ba năm chờ đợi, Trương Sinh trở về với hai chữ bình yên. Hạnh phúc đang mỉm cười, ước mơ đang đi vào hiện thực, thì oái ăm thay cho cuộc đời: ngày sum họp cũng là ngày nàng phải vĩnh viễn rời xa tổ ấm. Và đau đớn hơn nữa, kẻ đẩy nàng tới cái chết không phải ai xa lạ, mà chính là người chồng mà nàng hằng “ba năm gìn giữ một tiết” đợi chờ và đứa con trai duy nhất mà nàng suốt ba năm nâng niu, chăm sóc. Hai người thân thương nhất, gần gũi nhất lại là những kẻ gây ra>oan trái cho đời nàng. Mà họ đâu phải kẻ ác, và nàng cũng đâu có phải là kẻ phản bội. Đứa trẻ thì ngây thơ, chỉ nói lại những điều mà đêm đêm mẹ nó thường dạy khi bô' vắng nhà; nó không thể phân biệt giữa đùa và thật, vì nó mới lên ba và nó tin mẹ nó. Còn người chồng thì cả ghen, hàm hồ và mù quáng.
Là người cùng làng, chàng thừa biết đức hạnh của vợ. Bởi “mến vì dung hạnh” của nàng, chàng mới “xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”. Nhưng, ghen tuông là ghen tuông! Cái tâm lí ghen tuông đã gây nên biết bao oan nghiệt trên đời. Dù mới cưới nhau, bởi tính đa nghi. Trương Sinh đã “phòng ngừa quá sức”. Nhưng khi đó, hai người còn ở bên nhau và “nàng cũng giữ gìn khuôn phép nên chưa xảy ra chuyện gì. Nay có một khoảng trống về thời gian và không gian: ba năm xa cách. Chàng không thể kiểm soát được tâ't cả hành động của vợ. Ghen tuông thường đa nghi. Đa nghi dễ dẫn đến định kiến trong nhận thức, do đó, chỉ cần một cớ rất nhỏ, có khi hết sức mơ hồ, thậm chí chẳng cần một cớ gì, cũng có thể tưởng tượng ra một sự việc cực kì nghiêm trọng, một sự phản bội ô nhục, làm bại hoại gia phong. Cái định kiếp hàm hồ của tính ghen tuông thường dẫn đến tan cửa nát nhà và oan khiên giáng xuống.
ơ đây ta cũng nên có một chút cảm thông với Trương Sinh. Ba năm của đời lính đã làm chàng mệt mỏi chán chường, về đến nhà, lại cảnh bi thương: “Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khô lắm rồi”. Nỗi buồn khổ tái tê đè nặng lên trái tim anh lính Trương Sinh. Nếu như đô'i với Vũ Nương, chỗ dựa để tồn tại được là con là chồng, thì đô'i với Trương Sinh, chỗ dựa để tồn tại lại là con, là vợ. Thế mà, hình như có một người đàn ông nào đó không rõ đã len lỏi vào gia đình chàng, đã chiếm mất tình cha con chàng: “0 hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? ông lại biết nói chứ không giông như cha tôi trước kia chỉ biết nín thin thít”. Đứa bé đã có hai người cha: một người xuất hiện khi chàng vắng nhà, một người là chàng. Chỗ dựa thứ nhất không còn. Tuy nhiên sự sụp đổ này chưa quan trọng đô'i với chàng. Chỉ đến lúc chàng gặng hỏi và đứa bé khẳng định: “Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến” thì cơn ghen tuông mới thực sự bùng lên. Chỗ dựa thứ hai sụp đổ! Sự nghi ngờ vợ “không có gì gỡ ra được”. Đứa bé không biết nói dô'i. Chàng tin con mình. Mọi chi tiết đứa bé cung cấp đều chứng tỏ người đàn ông kia hành tung hết sức mờ ám, bí hiểm: đêm nào cũng đến, chỉ nín thin thít, chẳng bao giờ bế Đản cả. Đã thế họ lại xoắn xuýt bên nhau: “mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi”. Những bí ẩn về người đàn ông đó như những mũi đao xoáy vào tim chàng và khơi vào đúng chỗ yếu nhất của chàng: đa nghi và cả ghen. Đã ghen, cần gì chứng cớ, huống chi nay đã rành rành ra đây. Cái li kì trong “vụ án” này đã đẩy mâu thuẫn trong gia đình Trương Sinh lên đến cực điểm và châm ngòi cho quả bom ghen tuông của Trương Sinh bùng nổ. Tuy căng thẳng như vậy, song cái án “ngoại tình” sẽ được giải quyết lập tức chỉ cần một điều kiện cực kì đơn giản: Trương Sinh cho biết, ai đã cung cấp nguồn tin cho chàng. Nhưng điều kiện đó như thách thức thêm trái tim đang ghen tuông của chàng. Chàng không nói! Chàng không cần nói và không đủ can đảm nói. Cái định kiến về vợ hư đã đóng chặt trong đầu chàng rồi. Chàng không còn tỉnh táo để suy xét lời con nói. Ngay cả những lời van xin đến rớm máu của vợ, chàng cũng chẳng thèm để lọt tai: “Nay đã bình rơi châm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lên núi Vọng Phu nữa”. Cơn ghen của anh lính nông dân không được học hành chỉ bùng lên ở mức độ “la um lên cho hả giận” rồi ngấm ngầm dấm dứt “lấy chuyện bóng gió này nọ mắng mà nhiếc nàng và đánh đuổi đi”. Vũ Nương không thể chứng minh cho nỗi oan của nàng, họ hàng làng xóm “bênh vực và biện bạch cho nàng mà cũng chẳng ăn thua”. Và cuối cùng, nàng chỉ còn có thể lấy cái chết để giãi bày lòng mình: “nàng gieo mình xuống sông mà chết”.
Nỗi oan của Vũ Nương sẽ còn đeo đẳng lấy nàng mãi mãi, nếu như không có một đêm tình cờ: “Cha Đản lại đến kia kìa!”. Người cha thứ hai của bé Đản - nguyên nhân sâu xa gây ra cái chết bi thảm cho Vũ Nương lại xuất hiện. “Chàng hỗi đâu. Nó chỉ bóng chàng trên vách: - Đây này! Thì ra ngày thường ở nhà một mình nàng hay đùa con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản”. Té ra chỉ là một trò đùa! Một trò đùa trong thương nhớ lại dẫn đến một cái chết oan khiên vì lòng ghen mù quáng. Vợ chồng yêu nhau, quyến luyến không rời, như hình với bóng. Nàng là hình, chàng là bóng. Bóng với hình quấn quýt bên nhau không rời: “mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi”. Bây giờ nàng đã chết, hình đã mất, bóng còn đâu! Sự lẻ loi, cô đơn và nỗi ân hận sẽ là một hình phạt giày vò Trương Sinh suốt đời.
Lấy hình tượng cái bóng và lời nói ngây thơ của đứa bé để đẩy truyện đến đỉnh điểm và mở nút câu chuyện là nét độc đáo riêng của Nguyễn Dữ, không thể tìm thấy trong các truyện truyền kì khác của Việt Nam nói riêng cũng như truyền kì của Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản... nói chung.
Tuy nhiên, công bằng mà xét thì cái bi kịch của Vũ Nương một phần do nàng. Từ trước, nàng đã biết Trương Sinh “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Vậy mà lúc chồng vắng nhà, đặc biệt vào ban đêm, nàng lại chỉ vào bóng mình mà bảo với con đây là cha nó. Nó tin mẹ, nên tưởng cái bóng là cha mình thật. Nào ngờ, có một người khác - Trương Sinh - cũng tự xưng là cha. Nó ngạc nhiên là phải, vì điều vừa nghe nói mẹ chưa từng dạy. Đầu óc ngây thơ của nó vẫn đinh ninh rằng, mình có hai người cha, một người do mẹ chỉ cho và một người tự nhận. Nó nhận thấy, hai người cha rất khác nhau, nên đã so sánh. Giá như Vũ Nương biết được tâm lí của chồng tránh đi những gì có thể làm cho trí “tưởng tượng” của sự ghen tuông ngờ vực thì đâu đôn nỗi. Lấy nhau mà không biết tính nhau, dù thương yêu nhau đến đâu, không trước thì sau, bi kịch ắt xảy đến. Đó cũng là một khía cạnh mà Nguyễn Dữ muôn nói với người đời.
Là nhà văn nhân đạo, Nguyễn Dữ không muôn những người đức hạnh, nết na như Vũ Nương bị chết. Song hiện thực là hiện thực. Vũ Nương đã chết! Để minh oan và để đền đáp sự ngay thẳng thật thà, lòng hiếu thảo, sự thuỷ chung của nàng, tác giả đã tưởng tượng ra sự hồi sinh của nàng - nàng đã được các nàng tiên vớt lên, đưa về đảo tiên sông - và ông tưởng tượng ra cảnh hội ngộ với Trương Sinh. Mô tip các vị tiên cứu người chết oan khá phố biến trong các truyện truyền kì phương Đông. Tái hợp là nguyện vọng của nhân dân. Cái tài của Nguyễn Dữ là ông đã dung hoà được hiện thực với ước mơ, cái tồn tại và cái ảo ảnh. Vũ Nương trở về dương thế, nhưng chỉ hiện ra “ở giữa dòng mà nói vọng vào: Thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Áo ảnh chỉ chập chờn và mau chóng tan biến. Chia li là vĩnh viễn, bởi người chết rồi không thể nào sông lại: “Trong chóc lát, bóng nàng loáng thoáng mờ nhạt dần mà biến đi mất”. Đây cũng là nét đặc sắc trong truyện truyền kì của Nguyễn Dữ mà các tác giả sau ông không thể vượt qua. Ao ảnh đoàn tụ mau chóng biến mất chỉ còn lại một hiện thực đắng cay không ai muôn nhưng không chông lại được: Trương Sinh sông trong cảnh “phòng không vắng vẻ... ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya”. Đứa trẻ mồ côi, người chồng cô đơn...
Có thế nói, với Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã vượt khỏi những công thức thông thường về hình tượng người phụ nữ trong thể truyền kì. Vũ Nương không phải là hình tượng một trang liệt nữ, nàng chỉ là một người phụ nữ bình thường như bao người vợ, người mẹ khác trong đời thực. Phản ánh số phận bi thương của nàng, Nguyễn Dữ đã đề cập tới cái bi kịch muôn thuở của con người. Có lẽ chính vì vậy mà Chuyện người con gái Nam Xương vẫn còn sức hâp dẫn đôi với người đọc ngày nay.
Nguyễn Đăng Na