Soạn Văn 9: Đoàn thuyền đánh cá

  • Đoàn thuyền đánh cá trang 1
  • Đoàn thuyền đánh cá trang 2
  • Đoàn thuyền đánh cá trang 3
  • Đoàn thuyền đánh cá trang 4
  • Đoàn thuyền đánh cá trang 5
  • Đoàn thuyền đánh cá trang 6
  • Đoàn thuyền đánh cá trang 7
  • Đoàn thuyền đánh cá trang 8
BBĐ
Đoàn thuyền đánh cá
Bếp lửa
Tổng kết vê từ vựng (tiếp theo)
Tập làm thơ tám chữ
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
Huy Cận
I. KIẾN THỨC Cơ BẢN
• về tóc giả: Huy Cận (1919 - 2005), quê ở tính Hò Tĩnh. Huy Cận đã nổi tiếng trong phong trào Tha mới với tập thơ Lửa thiêng. Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy Cận dã dược Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
• về tác phẩm: Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến di thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến di thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dổi dào trong cảm hứng về thiên nhiêĩi dắt nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập thơ Trời môi ngày lại sáng (1958).
Bài thơ Đoàn thuyền đảnh cả dã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sông.
Bài thơ có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hỉnh ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, dộc đáo, có âm hưởng khoể khoắn, hào hùng, lạc quan.
HƯỚNG DẪN ĐỌC - HlỂU VĂN BẢN
Câu 1. Bài thơ được triển khai theo trình tự chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá. Dựa theo trình tự ấy, em hãy tìm bô cục của bài thơ.
Hãy nêu thời gian và không gian dược miêu tả trong bài thơ.
Bô cục của bài thơ. bài thơ được chia làm ba phần.
+ Phần một (hai khổ' đầu): cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi.
+ Phần hai (bôn khố’ tiếp theo): cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển.
+ Phần ba (khổ cuối): cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về.
Không gian và thời gian:
+ Không gian miêu tả trong bài thơ là biển cả khoáng đạt bao la.
+ Thời gian: từ lúc hoàng hôn buông xuống cho đến rạng đông ngày hôm sau.
Câu 2. Hình ảnh người lao động và công việc của họ được miêu tả trong không gian nào? Bằng những biện pháp nghệ thuật gì, tác giả dã làm nổi bật vẻ dẹp và sức mạnh của người lao dộng trước thiên nhiên, vũ trụ?
+ Hình ảnh người lao động và công việc của họ đã được miêu tả trong một không gian rất rộng lớn của vũ trụ, đó là giữa biển khơi bao la, hùng vĩ, tráng lệ.
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Thuyền ta lái gió với buồm căng.
-Ta hát bài ca gọi cá vào.
Gió thuyền đã nhịp trăng cao.
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
+ Nhà thơ miêu tả cảnh lao động trên biển bằng cảm hứng lãng mạn, bay bổng, thủ pháp phóng đại với những liên tưởng sáng tạo làm nổi bật lên hình ảnh con người lao động mới thật đẹp, thật hăng say, vẻ đẹp của biển trời hoà quyện với vẻ đẹp của con người lao động dệt nên bức tranh tráng lệ tràn đầy sức sông.
Câu 3. Bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp trảng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người lao dộng. Em hãy chọn phân tích một sô hình ảnh đặc sắc trong các khổ thơ 1, 3, 4 và 7. Bút pháp xây dựng hình ảnh của tác giả trong hài thơ có dặc diểm gì nổi bật?
+ Một sô hình ảnh đẹp trong bài thơ:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đèm sập cửa.
Hình ảnh thật tráng lệ, mặt trời giông như một quả cầu lửa khổng lồ đang từ từ lặn xuống biển. Biển cả như một ngôi nhà bí ẩn vĩ đại, còn những con sóng giông như những cái then cửa, sự liên tưởng bất ngờ thú vị, tạo hiệu quả nghệ thuật.
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
“Kéo xoăn tay” là kéo mạnh, kéo bằng tất cả sức lực khiến tất cả các cơ bắp nổi lên cuồn cuộn. Hình ảnh thơ như tạc một bức tượng ngư dân đầy sức sông. Hình ảnh đầy màu sắc lãng mạn. (Nguyễn Trí)
Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng.
Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Những hình ảnh lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng, dò bụng biển,... đã biến con thuyền đánh cá bình thường hàng ngày thành chiếc thuyền tiên đi trong cảnh biển. Chất lãng mạn bao trùm cả bức tranh lao động, cả con thuyền đánh cá, biến công việc nặng nhọc thành niềm vui, lòng yêu đời chan chứa. (Nguyễn Trí)
+ Bút pháp miêu tả: bút pháp lãng mạn, cảm xúc bay bổng, hình ảnh thơ tráng lệ, kì vĩ có sức biểu đạt cao.
Câu 4. Bài thơ có nhiều từ hát, cả bài củng như một khúc ca. Đây là khúc ca gì và tác giả làm thay lời ai? Em có nhận xét gì về âm hưởng, giọng diệu của bài thơ? Các yếu tố: thể thơ, vần, nhịp đã góp phần tạo nên âm hưởng của bài thơ như thế nào?
+ Chủ thể của ca khúc-, đây là khúc ca về lao động, trong những năm tháng đất nước bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tác giả làm thay lời cho những người lao động làm công việc đánh cá trên biển khơi bao la. Đây là sự hoá thân của nhà thơ vào cuộc sông.
+ Ằm hưởng, giọng điệu của bài thơ: bài thơ có âm hưởng vừa khoẻ khoắn, vừa sôi nổi, lại vừa phơi phới bay bổng. “Không khí thật vui, cuộc đời phấn khởi, nhà thơ phấn khởi, cả một vùng biển đang hăng say lao động, từ bình minh cho đến hoàng hôn và cả từ hoàng hôn cho đến bình minh” (Huy Cận).
+ Yếu tố vẩn nhịp:
Cách gieo vần có nhiều biến hoá linh hoạt, các vần trắc xen lẩn vần bằng (lửa cửa - khơi khơi, lặng - thoi, sáng - oi), vần liền xen lẫn vần cách, các vần trắc tạo sức dội, sức mạnh; các vần bằng tạo sự vang xa bay bổng.
Lời thơ dõng dạc như khúc hát mê say, hào hứng, phơi phới, năm lần lặp lại chữ hát trong bài thơ. (Nguyễn Văn Long)
Câu 5. Qua những bức tranh về thiên nhiên và con người lao động trong bài thơ, em có nhận xét gì về cái nhìn và cảm xúc của tác giả trước thiên nhiên đất nước và con người lao động?
+ Cảm xúc của tác giả trước thiên nhiên: thể hiện tình yêu say đắm, mãnh liệt trước biển khơi bao la hùng vĩ, giàu có vô tận.
Cá thu biển Đông như đoàn thoi.
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé.
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông.
Những vẻ đẹp lộng lẫy, huyền ảo, trí tưởng tượng của nhà thơ thật lãng mạn bay bổng, phong phú trong cách quan sát và miêu tả hiện thực.
+ Cảm xúc của tác giả về con người lao động: thể hiện lòng yêu mến và ngưỡng mộ con người lao động với tinh thần hăng say phấn khởi biết bao:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi Ta hát bài ca gọi cá vào Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Thật đẹp, thật khoẻ khoắn, tinh thần lao động làm tràn ngập niềm vui, háo hức, say mê. Trong con mắt tác giả cuộc sông của người lao động làm chủ đất nước thật đáng yêu, đáng quý.
Tư LIỆU THAM KHẢO
1. Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới, Huy Cận nổi tiếng ngay từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường Quốc học Huế. Khi những bài thơ đầu tiên của ông xuất hiện, người ta đã nhận ra một giọng điệu riêng. Năm 1940, tập Lửa thiêng ra mắt bạn đọc, Huy Cận đã là một đỉnh cao của phong trào này. Thơ ông diễn tả môĩ quan hệ giữa con người với vũ trụ vô biên trong những vần thơ trong sáng, vừa hiện đại vừa cổ điển, thường hàm chứa chất triết lí sâu xa.
Huy Cận hăng hái tham gia hoạt động cách mạng từ những ngày bí mật. Cách mạng thành công, ông giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền song không lúc nào quên thơ. Có một thời gian dài sau Cách mạng, ngòi bút của ông dường như chững lại. Mãi đến năm 1958, sau đợt xâm nhập thực tế vùng mỏ Quảng Ninh, thơ Huy Cận có sự đột khởi và từ đó liên tiếp đạt những kết quả rực rỡ qua các tập thơ: Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa,... Trong giai đoạn này, nhiều bài thơ của ông được độc giả yêu mến và đánh giá là những tác phẩm tiêu biểu của gia đoạn như các bài: Các vị La Hán chùa Tây Phương, Buổi sáng hôm nay, Một chiều thu, Đoàn thuyền đánh cá,...
Bình luận về hoàn cảnh ra đời và những nét đặc sắc của bài Đoàn thuyền đánh cá, Xuân Diệu đã viết: “Món quà đặc biệt của vùng mỏ Hồng Gai - Cẩm Phả cho vừa túi thơ Huy Cận là bài Đoàn thuyền đánh cá\ lời thơ dõng dạc, điệu thơ cất lên tiếng hát, có cả tiếng “gõ thuyền”; hơi thơ vừa kim bởi không khí làm ăn phấn chấn, vừa cổ, cổ thể, cổ điển; những vần trắc đưa sức dội, sức mạnh của bài thơ, từ thực tế nhưng không đóng khung trong thực tế, mà xuất phát từ mơ mộng, có hình ảnh của biển, của mặt trời, của gió, của trăng, của không gian to rộng cho đến mắt những con cá mà cũng “huy hoàng muôn dặm phơi”; bài thơ lặp đi lặp lại năm lần chữ “hát”, thực chất là một bài ca sảng khoái, phối hợp nhạc điệu với những động tác dồn dập, mở ra bằng mặt trời xuống biển, đóng lại bằng mặt trời đội biển mà lên; ở giữa là: cài then, sập cửa, ra khơi, căng buồm, dệt biển, dàn đan thế trận, đêm thở sao lùa, kéo lưới xoăn tay, lưới xếp buồm lên, rồi “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” mà trở về”.
Đoàn thuyền đảnh cá là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Huy Cận. Ớ đây, sự giao thoa giữa cảm hứng về vũ trụ và cảm hứng lãng mạn cách mạng đã tạo nên một khoảng trời mênh mông vừa quen thuộc vừa mới lạ để ngòi bút Huy Cận tung hoành, sáng tạo. Bài thơ vừa gợi nhớ một thoáng Huy Cận thời Lửa thiêng vừa mở ra cả một thế giới mới lộng lẫy, tràn đầy hứng khởi say người của Huy Cận sau Cách mạng.
Cảm hứng lãng mạn cách mạng ôm trùm cả bài thơ, gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Lấy đề tài về đoàn thuyền đi đánh cá trong một đêm đầy sao trên biển Hạ Long, bài thơ dễ có điều kiện đưa vào hàng loạt chi tiết tả thực hình ảnh con thuyền, việc thả lưới, kéo lưới, thu hoạch cá,... như cách làm của nhiều bài thơ thông thường lúc đó. Song Huy Cận không đi theo hướng ấy. Cả bài thơ chỉ có một chi tiết tả thực cảnh kéo lưới. Song ngay cả chi tiết này cũng được viết ra theo bút pháp khoa trương khiến nó vẫn nằm trong mạch cảm hứng lãng mạn cách mạng.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Kéo xoăn tay là kéo mạnh, kéo bằng tất cả sức lực khiến tất cả các cơ bắp nổi lên cuồn cuộn. Hình ảnh thơ như tạc một bức tượng ngư dân đầy sức sông. Hình ảnh đó lại thêm màu sắc lãng mạn khi đặt cạnh hình ảnh trong câu thứ ba:
Vẩy hạc đuôi vàng loé rạng đông.
Câu thơ này có màu sắc rực rỡ nhưng bất ngờ nhất là ánh sáng loé rạng đông từ đuôi những con cá kia. Nó mang lại vẻ đẹp hấp dẫn riêng cho công việc kéo lưới bình thường mà vất vả.
Cảm hứng lãng mạn cách mạng đã giúp Huy Cận phát hiện ra vẻ đẹp của cảnh đánh cá đêm và niềm vui phơi phới tràn ngập biển cả, sao trời của những ngư dân.
Cảm hứng thứ hai làm nên chất Huy Cận trong bài thơ này là cảm hứng về vũ trụ và con người. Thơ Huy Cận trước cách mạng được khơi nguồn từ cảm hứng vũ trụ. Lúc đó, vũ trụ lớn lao, vô biên đã đè bẹp con người khiến nó rợn ngợp, cô đơn, lẻ loi, ngơ ngác:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái, nước song song Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Viết đoàn thuyền đánh cá, nói tới biển, tới trời, Huy Cận có điều kiện khơi lại nguồn cảm hứng về vũ trụ và con người. Ngày nay biển cả, vũ trụ bao la trở nên thân thiết với con người, ngư dân trở thành người chủ của biển khơi, bạn của trăng sao.
Cảm hứng lãng mạn cách mạng hoà quyện, đan cài với cảm hứng về vũ trụ và con người đã tạo cho bài thơ nhiều hình ảnh bất ngờ, đặc biệt là khổ đầu và khổ cuối. Ớ khổ đầu, không gian khoáng đạt (mặt trời, biển), cảnh vật bao la, hùng vĩ gợi lên sự vô cùng, vô tận của biển trời.
Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
nhưng đoàn thuyền đánh cá đã ra đi trong cảnh ấy lại tràn đầy tiếng hát. Xuân Diệu đã rất tinh khi phát hiện “bài thơ lặp đi lặp lại năm lần chữ hát thực chất là một bài ca sảng khoái, phôi hợp nhạc điệu với những động tác dồn dập”. Không khí làm ăn nhộn nhịp, âm cúng tạo nên quan hệ đầm ấm, hài hoà giữa con người và vũ trụ.
Khổ thơ cuối cùng tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong nắng mai. Nhiều hình ảnh trong khổ thơ vừa có sự lặp lại vừa có sự phát triển, vừa diễn tả biển cả, vũ trụ rông lớn, vửa diễn tả tư thế lạc quan, làm chủ của ngư dân. Trước tiên là hình ảnh mặt trời. Ớ trên là:
Mặt trời xuống hiển như hòn lửa.
ở đây là:
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Sau đó là hình ảnh đoàn thuyền và tiếng hát. Ớ trên là:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng huồm cùng gió khơi
còn ở đây là:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Một bên là ngày tàn và cảnh ra đi, một bên là ban mai và ngày trở về. Ra đi nhẹ nhàng phơi phới. Trở về hăm hở, say sưa và sảng khoái vì thành quả tốt đẹp của một đêm làm việc cật lực. Song dù ra đi hay trở về, con người và biển cả hoà làm một trong sự tin tưởng và yêu thương.
Hình ảnh cuôì cùng khép lại bài thơ nhưng lại mở ra trong tâm trí người đọc cả một trường liên tưởng mới mẻ:
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Bài Đoàn thuyền đánh cá bộc lộ những đặc sắc trong phong cách thơ của Huy Cận cùng sự đổi mới trong phong cách ấy trong con đường hoà nhập cái tôi riêng lẻ của nhà thơ với cái ta chung của đất nước. Lấp lánh mãi trong tâm trí của người đọc nhiều hình ảnh độc đáo khiến người đọc khó quên chúng và khó quên cả bài thơ.
(Nguyễn Trí, Bình giảng văn học lớp 9)
Bài thơ kết thúc với cảnh rạng đông khi đoàn thuyền đánh cá quay trở về:
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời dội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Đoàn thuyền trỏ về đất liền trong bình minh, mặt trời bừng sáng nhô màu mới, con người khẩn trương chạy đua cùng mặt trời, thiên nhiên và con người hoà hợp trong sức sống của một ngày mới rực rỡ. Mỗi câu thơ một hình ảnh góp vào làm cho khổ thơ trở thành một bức tranh hùng vĩ và sông động, tiếng hát của con người, đoàn thuyền lướt nhanh trong cuộc chạy đua với mặt trời, hình ảnh hùng vĩ của mặt trời đội biển nhô màu mới và đoàn thuyền thì đầy ắp cá, mắt cá chi chít lấp lánh trên muôn dặm biển khơi bát ngát... Sự vận động của đoàn thuyền đánh cá thắng lợi trở về hoà nhập với hành trình của mặt trời đi lên từ lòng sâu của biển thể hiện khí thế hùng mạnh của con người làm chủ đất nước, làm chủ đất trời biển cả. Và biển cả cũng rất tươi sáng, tràn ngập niềm vui, trở nên gần gũi, gắn bó với con người biết bao! Khổ thơ thể hiện một khung cảnh lao động đầy khí thế của con người mới, khung cảnh của một cuộc sống mới trong ánh sáng mới rực rỡ.
(Theo Tống Trần Ngọc, Đến với thơ Huy Cận)