Soạn bài Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường, 1981)

  • Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường, 1981) trang 1
  • Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường, 1981) trang 2
  • Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường, 1981) trang 3
  • Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường, 1981) trang 4
  • Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường, 1981) trang 5
  • Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường, 1981) trang 6
  • Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường, 1981) trang 7
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG ?
Hoàng Phủ Ngọc Tường
I. KIẾN THỨC Cơ BẢN
A. Giới thiệu
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại Huế. Quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Ông là một trí thức yêu nước, một chiến sĩ trong phong trào đấu tranh chông Mỹ ngụy ở Thừa Thiên - Huế. ông quê gô'c Quảng Trị nhưng sông, học tập và hoạt động ở Huế, tâm hồn thấm đẫm văn hóa Huế.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn Việt Nam hiện đại chuyên viết bút kí. Những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chát trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vón kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí,... Tất cả được thể hiện qua lô'i hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.
Bài bút kí Ai đã đặt tèn cho dòng sông ? viết ở Huế (4 - 1 - 1981), được in trong tập sách cùng tên của NXB Thuận Hóa năm 1987, sau này in lại trong “Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường", tập 2 (NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2002).
Tác phẩm viết về sông Hương, dòng sông đặc trưng cho Huế, dòng sông đã đi vào thơ của nhiều nhà thơ Việt Nam như: Tố Hữu, Hàn Mặc Tử, Thu Bồn...
Qua những trang văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, có thể thấy vẻ đẹp thiên nhiên phong phú, đa dạng, huyền ảo như đời sống, nhừ tâm hồn con người đã được diễn tả bằng ngòi bút đầy cảm hứng và tài hoa của tác giả trong thể loại bút kí.
Bài bút kí này có 3 phần:
Phần thứ nhất là phần nói về cảnh quan thiên nhiên của sông Hương.
Phần thứ hai và phần thứ ba nói về sự gắn bó của sông Hương với lịch sử văn hóa.
Tuy nhiên, ngay trong phần thứ nhất, người đọc không chỉ thấy được vẻ đẹp thiên nhiên gắn với đời sông và tâm hồn con người mà còn cảm nhận được phần nào sự gắn bó của sông Hương vởi lịch sử và văn hóa của xứ Huế, của đất nước. Mặt khác, những nét tiêu biểu cho đặc trưng thể loại bút kí và văn phong Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã thể hiện trong đoạn văn đặc sắc này.
Đoạn trích thuộc phần thứ nhất (trừ đoạn mở đầu) và đoạn kết của bài kí.
B. Đọc - hiểu văn bản
Bô' cục: Đoạn trích gồm các đoạn nhỏ:
Từ “Trong những dòng sông đẹp...” đến "... dưới chân núi Kim Phụng”: Sông Hương ở thượng lưu.
Từ “Phải nhiều thế kỉ qua..” đến "... bát ngát tiếng gà”: Sông Hương đoạn chảy về đồng bằng đến ngoại vi thành phô' Huế.
Từ “Từ đây...” đến "... quê hương xứ sở”: Sông Hương chảy vào thành phô' Huế.
Từ “Dòng sông...” đêh “... đến biển”: Lời tiểu kết.
Từ “Tôi về Thành Trung...” đến hết: Lời kết của toàn tác phẩm.
Hình ảnh dòng sông Hương
Sông Hương ở thượng lưu: được miêu tả với một sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng cũng có lúc dịu dàng và say đắm. Cảnh dòng sông ở đây được tác giả khắc họa bằng:
Những hình ảnh đầy â'n tượng (mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc);
Những sắc màu rực rỡ (màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng);
Những từ ngữ gợi cảm (bản trường ca của rừng già, dịu dàng và say đắm);
Những phép tu từ so sánh kết hợp với nhân hóa (Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại, Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng)...
Sông Hương trên đường về đồng bằng và ngoại vi thành phô' Huế
Về đồng bằng, sông Hương có sự thay đổi về tính cách. Sông như đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái để mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở (vẻ đẹp dịu dàng, trí tuệ này của dòng sông thực ra đã có cội nguồn ở phần tâm hồn sâu thẳm của nó trong cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua).
Hình tượng người con gái đẹp được người tình mong đợi đến đánh thức đã hứa hẹn nhiều vẻ đẹp mới của sông Hương.
+ Những kiến thức về địa lí đã giúp cho tác giả miêu tả được tỉ mỉ sông Hương với những khúc quanh và lưu vực của nó. Năng lực quan sát tinh tê' và sự phong phú về ngôn ngữ hình tượng đã giúp cho tác giả viết được những câu văn đầy màu sắc và ấn tượng như: “[...] sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “sắc nước trở nên xanh thẳm”, “nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”, “dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi”, “những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc”, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.
+ Kiến thức về văn hóa, vãn học đã in dấu vào những câu văn viết về những lăng tẳm, về vẻ đẹp trầm mặc của sông Hương đoạn ở ngoại vi thành phô' Huế; vào câu ca dao “Bốn bề núi phủ mây phong - Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên”.
Sông Hương khi chảy vào thành phố Huế: dòng sông trở nên vui tươi hẳn lên và đặc biệt chậm rãi, êm dịu, mềm mại.
Ớ đoạn này, tác giả đã sử dụng những hình ảnh đầy ấn tượng: chiếc cầu trắng “in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”, “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ [...]”.
Những phép tu từ so sánh kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ độc đáo: “dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”, khúc quanh (trước khi ra biển) như một “nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”.
Những chi tiết về phong tục, lễ hội trở thành những hình tượng nghệ thuật miêu tả dòng sông với những “trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh [...] qua Huế bỗng ngập ngừng như muôn đi muôn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”. Ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi tả sự chậm rãi, êm dịu của con sông Hương đã gặp gỡ câu thơ của Thu Bồn viết về sông Hương:
Con sông dùng dằng, con sông không chảy Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
Những kiến thức về âm nhạc cũng được tác giả huy động với những liên tưởng kì thú: “điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phô' [...]. Đấy là điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế”.
Tiếp đó, kí ức về những dòng sông mà tác giả đã từng đến đã được vận dụng để so sánh, để làm rõ nét đặc trưng dòng chảy của sông Hương: sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, và đặc biệt là dòng sông Nê-va với những phiến băng trôi nhanh như chiếc thuyền xinh đẹp của những chú chim hải âu,...
Lời tiểu kết của phần thứ nhất
Tác giả khéo léo dùng một đoạn trong văn kiện chính xác của UNESCO - một đoạn văn thuyết minh đầy cảm xúc như tùy bút - để khái quát và đánh giá về Huế - một di sản thiên nhiên, di sản văn hóa thế giới - làm tiểu kết cho phần thứ nhất của bài bút kí. Đây là một kiểu đòn bẩy nghệ thuật, vừa khái quát được nội dung vừa thể hiện được nghệ thuật bút kí .
Ngoài ra, tác giả còn viết những lời bình về vẻ đẹp độc đáo và vị trí của sông Hương: “khuôn mặt tươi trẻ và quyến rũ của dòng sông thành phô' giữa lòng thê' giới hiện đại. Người ta đã nhìn khắp trái đất và đã không quên được nó, dòng sông Việt Nam nhỏ nhắn chỉ dài gần một trăm ki-lô-mét từ nguồn đến biển”.
Cách kết thúc bài bút kí
Bài bút kí kết thúc bằng cách lí giải cái tên của dòng sông: sông Hương, sông Thơm. Thực ra, sự lí giải này người đọc đã phần nào cảm nhận được ở các đoạn trên nhưng đến đây tác giả muôn nhấn mạnh thêm bằng một huyền thoại về tên gọi của dòng sông, đã nói lên khát vọng của con người nơi đây muốn đem cái Đẹp và tiếng Thơm dể xây đắp vãn hóa và lịch sử. Việc dùng một câu hỏi để đặt tên cho bài kí chẳng những lưu ý người đọc về cái tên đẹp của dòng sông mà còn gợi lên niềm biết ơn đỗì với những người đã khai phá miền đất ấy.
Nét đặc sắc trong văn phong Hoàng Phủ Ngọc Tường
Bút kí ghi lại những con người thực và sự việc mà nhà văn đã tìm hiểu, nghiên cứu cùng với những cảm nghĩ của mình nhằm thể hiện một tư tưởng nào đó. Sức hấp dẫn và thuyết phục của bút kí tùy thuộc vào tài năng, trình độ quan sát, nghiên cứu, khám phá, diễn đạt của tác giải đối với các sự kiện được để cập đến [...].
(Lê Bá Hán - Trần Đình sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên)
Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2004)
Nét đặc trưng trên của thể loại bút kí đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường vận dụng với một văn phong đặc sắc:
Soi bóng tâm hồn với tình yêu say đắm quê hương xứ sở vào đối tượng miêu tả khiến đối tượng trở nên lung linh huyền ảo, đa dạng như đời sốhg, như tâm hồn con người.
Sức liên tưởng kì diệu, những kiến thức phong phú về địa lí, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật và những trải nghiệm của bản thân tác giả.
Ngôn ngữ phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, đầy chất thơ; cách sử dụng những phép tu từ so sánh, nhân hóa, ẩn dụ,...
Có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ. c. Tổng kết
Đoạn trích bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông ?” là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ ca ngợi cảnh vật sông Hương, con sông gắn bó với lịch sử, văn hóa của Huế và củng là của dân tộc. Nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn của đoạn văn là những xúc cảm sâu lắng được tổng hợp từ một vốn hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lí và văn chương cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.
II. ĐỂ VĂN LUYỆN TẬP
Đềi Hãy xác định thể loại của tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông ? của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Từ đó, anh (chị) thây cần phải lựu ý điều gì khi tìm hiểu tác phẩm này ?
GỢl ý
Ai đã đặt tên cho dòng sông ? trước hết được coi là tác phẩm bút kí (gọi tắt là bài kí). Bút kí thường không sử dụng hư cấu vào việc phản ánh hiện thực mà “ghi lại những con người thực và sự việc mà nhà văn đã tìm hiểu, nghiên cứu cùng với những cảm nghĩ của mình nhằm thể hiện một tư tưởng nào đó. Sức hấp dẫn và thuyết phục của bút kí tùy thuộc vào tài năng, trình độ quan sát, nghiên cứu, khám phá, diễn đạt của tác giả đối với các sự việc được đề cập đến” {Từ điền thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2004).
Tuy vậy, Ai dã đặt tên cho dòng sông ? là một bài kí giàu chất tùy bút, thậm chí có thể coi là tùy bút. Tùy bút theo cách định nghĩa của Nguyễn Tuân là lối văn “độc tấu”, trong đó nhân vật chính là cái tôi cá nhân, cá thể của tác giả. Và vì thế, xét đến cùng, cái tôi này phải có những phẩm chất nào đó mới tạo nên sức hấp dẫn của thiên tùy bút.
Từ những điều trên đây, chúng ta có thể khẳng định, muô' phát hiện được cái hay, cái đẹp của tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông ?, cần thây được sự độc đáo, sự sắc sảo thông minh, vón văn hóa, sự lịch lãm từng trải, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và cách sử dụng ngôn ngữ điêu luyện của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bài kí.
Đề: Có ý kiến cho rằng trong bài kí này, Hoàng Phủ Ngọc Tường có những cách ví von, so sánh rất sáng tạo, bất ngờ, hấp dẫn người đọc.
Anh (chị) hãy tìm một số câu văn có cách ví vón, so sánh đó và lí giải sức hấp dẫn của chúng.
GỢI Ý
Trong bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông ?, Hoàng Phủ Ngọc Tường có những cách ví von, so sánh, liên tưởng sáng tạo bất ngờ, hấp dẫn người đọc. Chẳng hạn như:
“Phía đó, nơi cuô'i đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phô' in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”.
Ai đã từng đến Huế đều có ấn tượng về cây cầu Tràng Tiền có hình dáng khá đặc biệt: như những chiếc lược xếp liền nhau (Cầu cong như cái lược ngà / Sông dài mái tóc cung nga buông hờ - Nguyên Bính, Vài nét Huế). Và có lẽ vì vậy, ai đi thuyền trên sông Hương từ xa nhìn về phía cầu tràng Tiền đều thấy cây cầu in ngần trên nền trời - chân trời. Và tác giả ví cây cầu như những vành trăng non, vành trăng đầu tháng hình cánh cung. Cách ví von ấy trước hết là lột tả rất đúng hình dáng độc đáo của cây cầu Tràng Tiền, nhưng có lẽ điều quan trọng hơn là nó đã gợi được sự thanh mảnh, dịu dàng, thơ mộng của sông Hương, của xứ Huế.
“Giáp mặt thành phô' ở cồn Giã Viên, sông Hương uô'n một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”.
Như nhiều người đều biết, phần sông Hương chảy qua thành phô' Huê' có đoạn dòng sông uôh lượn tạo thành một cánh cung. Như vậy, trước hết câu văn trên đã tả rất đúng dòng chảy của sông Hương đoạn từ cồn Giã Viên đến cồn Hến. Nhà văn ví dòng chảy ấy, đường cong ấy như một tiêhg vâng không nói ra của tình yêu. Đây là cách ví von độc đáo, sáng tạo. Câu văn viết về dòng sông nhưng không chỉ nói được về dòng sông mà còn nói được về con người - những cô gái Huê' dịu dàng, thướt tha, đa tình mà e lệ, kín đáo. Khi đã yêu, họ có ngôn ngữ riêng. Một ánh mắt, một nụ cười,... có thể là tín hiệu của sự thuận tình, đâu có phải lúc nào cũng cần đến tiếng “vâng”.
Đề: “Vẻ đẹp thiên nhiên phong phú, đa dạng, huyền ảo như đời sống, như tăm hồn con người được diễn tả bằng ngòi bút đầy cảm hứng và tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thể loại bút kí.” (Ngữ văn 12, Sách giáo viên).
Phân tích phẩn đẩu của bài bút kí để làm rõ nhận định trên.	
BÀI VIẾT GỢI Ý '
Con sông dùng dằng con sông không chảy Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
(Thu Bồn)
Cũng giông như nhà thơ Thu Bồn, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện tình yêu rất sâu với Huế qua cảm nhận về sông Hương trong bài bút kí đặc sắc Ai đã đặt tên cho dòng sông ?. Những hồi ức, sự quan sát và đặc biệt năng lực cảm thụ tinh tế đã giúp nhà văn nhận ra hồn Huế, hồn sông Hương và diễn tả bằng ngòi bút đẩy cảm hứng và tài hoa để nhận ra vẻ đẹp thiên nhiên phong phú, đa dạng, huyền ảo như đời sống, như tâm hồn con người.
Trong lĩnh vực bút kí, Hoàng Phủ Ngọc Tường có một giọng điệu riêng khó trộn lẫn. Nhưng có lẽ ở những trang viết về Huế bao giờ người đọc cũng nhận thây một niềm say mê lạ thường, một chiều sâu văn hóa ẩn chứa trong từng ghi nhận, quan sát của nhà văn. Chất thơ của mảnh đất như lại có dịp thăng hoa cùng chất thơ trong tâm hồn người nghệ sĩ, tạo thành nỗi bâng khuâng Ai đã dặt tên cho dòng sông ?.
Bắt đầu là một hoài niệm bổn mùa Xuân Hạ Thu Đông, trong cảm giác bồng bềnh giữa cõi thực và cõi thơ trong một không gian thiên nhiên có vị ngọt và thanh, có mùi hương trôn tìm, có sắc màu và âm thanh vang lên từ những câu Kiều mang bóng hình xứ Huế, sông Hương. Không khí mở đầu bài bút kí đầy chất thơ đã dẫn dắt người đọc phát hiện tùng vẻ đẹp đa dạng có sức quyến rũ của sông Hương, có cả một lịch sử thấm đẫm nền ván hóa đặc trưng xứ Huế. Cảm xúc thấm đẫm văn chương đã được khơi lên từ Truyện Kiểu của Nguyễn Du, để nhà văn nói về dòng sông với một tình yêu đến độ mê đắm !
Phần đầu của bài bút kí đã cung cấp cho người đọc những thông tin thú vị, kết hợp sự miêu tả và giọng điệu kể chuyện để người đọc như được làm một hành trình suốt chiều dài của dòng sông thơ mộng. Bắt đầu từ thượng nguồn sông Hương, tác giả đã làm một phép so sánh phức hợp để đem lại cảm nhận về dòng sông như “bản trường ca của rừng già”. Hàng loạt tính từ được tinh lọc để người đọc nhận ra từng âm sắc của bản trường ca: rầm rộ, mãnh liệt, cuộn xoáy, dịu dàng và say đắm, phóng khoáng mà man dại. Con sông được hình dung như một cô gái di-gan, một sinh thể tràn sức sống với bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Một vẻ đẹp chứa đựng những sự bí ẩn hoang sơ ẩn trong rừng già, ghềnh thác, bóng cây đại ngàn, sắc đỗ quyên chói lọi màu đỏ. Sông Hương như một kí ức tươi nguyên của một tình yêu không bao giờ phai nhạt, nhà văn đã lồng vào câu chuyện về dòng sông một huyền thoại "Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người con gái đẹp nàm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại...". Theo từng câu văn trong bài bút kí, người đọc được thưởng thức những 177
vẻ đẹp rất riêng của dòng sông: vừa mang vẻ hoang dại hùng vĩ vừa mềm mại trữ tình. Hàng loạt những địa danh của Huế được nhắc đến để người đọc hình dung hành trình từ thượng nguồn về hạ lưu của sông Hương, khơi dậy vẻ đẹp bí ẩn khi dòng sông còn mang theo nguyên vẹn dư vang của Trường Sơn, tạo nên vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ thụ..., hài hòa bức tranh sơn thủy ngân nga cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ.
Cảm nhận về vẻ đẹp của dòng sông thơ mộng, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã xây dựng hẳn một đoạn văn dài, so sánh sông Hương với những dòng sông vốn là niềm tự hào của nhiều thành phô' văn hóa: sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa- pet, sông Nê-va của Lê-nin-grát,... Cách so sánh ấy vừa tôn lên lòng tự hào về văn hóa trên mảnh đất cố đô triều Nguyễn, vừa khám phá ra những điều độc đáo riêng biệt của dòng Hương: "Giáp mặt thành phố ở cồn Giã Viên, sông Hương uốn một nhánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng "vâng" không nói ra của tình yêu", "điệu chảy lặng lờ khi ngang qua thành phô'". Dòng sông còn làm nên nét đặc sắc văn hoá kết tinh trong câu thơ Truyện Kiều, trong trầm tích văn hóa dân gian rất Huế, gắn kết với tấm lòng người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở. Không chỉ tạo ra những vẻ đẹp văn hóa đặc trưng để UNESCO công nhận, sông Hương còn gắn với những trang lịch sử hào hùng: những cuộc chiến đấu giữ vững biên cương bờ cõi thuở xưa, soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ, rợp bóng cờ sao ngày Cách mạng tháng Tám thành công.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện được tài hoa và khả năng liên tưởng phong phú, gắn kết thiên nhiên với lịch sử - văn hóa của một vùng đất, tạo nên sức hấp dẫn của một vùng đất có tiềm năng du lịch tầm cỡ quốc gia và quốc tế. ông đã không tiếc lời ca ngợi dòng sông bằng những lời văn thấm đượm ân tình, nặng lòng với Huế: "Sông Hương là vậy, dòng sông của thời gian ngân vang, của sử viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nỏ biết cách tự biến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước", vẻ đẹp ấy còn chắp cánh cho cảm xúc về sông Hương của biết bao thê' hệ nhà văn nhà thơ, mỗi người cảm nhận một vẻ, tạo nên những cảm xúc phong phú góp phần nâng vẻ đẹp hiện thực lên. Tiếng nói của tình yêu tha thiết, của sự gắn bó bền chặt đã khiến nhà văn như hòa chung cảm xúc đồng điệu với nhân vật trữ tình - nhà thơ từ Hà Nội vào, dẫu mái tóc bạc trắng, dẫu thăng trầm ghi dấu nhưng khi đứng trước dòng sông đã vụt hỏi một câu thấm đượm nỗi bâng khuâng: Ai đã đặt tên cho dòng sông ĩ. Câu hỏi ấy cũng là nỗi niềm của tác giả bài bút kí khi say mê khám phá những vẻ đẹp tiềm ẩn của sông Hương.
Bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường được viết nên bằng tất cả sự tài hoa của người nghệ sĩ ngôn từ, cẩn trọng nhưng chắt lọc tinh tế, miêu tả đan xen với kể chuyện một cách tài tình bằng một giọng văn lôi cuô'n từ đầu đến cuối. Nhà văn đã giúp chúng ta hiểu về ngọn nguồn dòng chảy làm nên tâm hồn ngọt ngào ân tình của người xứ Huế. Sự am hiểu sâu sắc ở nhiều lĩnh vực lịch sử, địa lí, văn hóa, nghệ thuật đã góp phần đắc lực giúp nhà văn chuyển tải bức thông điệp tình yêu đất Huế, tình yêu sông Hương một cách thâm thìa.