Soạn bài Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài, 1953)

  • Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài, 1953) trang 1
  • Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài, 1953) trang 2
  • Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài, 1953) trang 3
  • Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài, 1953) trang 4
  • Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài, 1953) trang 5
  • Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài, 1953) trang 6
  • Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài, 1953) trang 7
  • Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài, 1953) trang 8
  • Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài, 1953) trang 9
  • Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài, 1953) trang 10
  • Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài, 1953) trang 11
  • Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài, 1953) trang 12
VỢ CHỒNG A PHỦ
Tô Hoài
KIẾN THỨC Cơ BẢN
A. Giới thiệu
1. Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh năm 1920 ở làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), trong một gia đình thợ thủ công.
Ông là một nhà văn lớn, có sô' lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam — chủ yếu bằng con đường tự học.
Sáng tác của ông thiên về diễn tả những sự thật của đời thường. Theo ông: “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”.
Ông có vốn hiểu biết đặc biệt phong phú, sâu sắc về những nét riêng trong phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta.
Ông cũng là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, vón từ vựng giàu có - nhiều khi rất bình dân và thông tục - nhưng nhờ cách sử dụng đắc địa và tài ba nên có sức lôi cuốn, lay động người đọc.
2. Truyện Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn đặc sắc nhất trong tập Truyện Tây Bắc (1953) của Tô Hoài, kết quả của chuyên đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc (1952).
Truyện Tây Bắc được tặng giải Nhất - Giải thưởng Hội Vần nghệ Việt Nam 1954 - 1955.
Tác phẩm gồm ba truyện: Cứu đất cứu mường, Mưòng Gian và Vợ chồng A Phủ, thể hiện cuộc sổng tủi nhục của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách phong kiến thực dân và quá trình thức tỉnh của họ dưới ánh sáng cách mạng.
Tác phẩm in rõ dấu ấn phong cách nghệ thuật đặc sắc của Tô Hoài: màu sắc dân tộc đậm đà; ngôn ngữ và lời văn giàu tính tạo hình, thấm đượm chất thơ, chất trữ tình... Đây là một thành công có tính đột phá của nền văn xuôi cách mạng ở đề tài miền cao Tây Bắc.
Truyện Vợ chồng A Phủ viết về hai chặng đời của Mị và A Phủ. Chặng thứ nhất là những ngày đau khổ ở Hồng Ngài trong nhà thông lí Pá Tra. Chặng thứ hai là lúc Mị và A Phủ đã trôn sang Phiềng Sa, nên vợ nên chồng, gặp gỡ cách mạng và trở thành du kích.
Phần đặc sắc của truyện là phần kể về chặng thứ nhất: cuộc sông tủi nhục của Mị và A Phủ trong nhà thông lí Pá Tra ở Hồng Ngài.
B. Đọc - hiểu văn bản
Hình tượng nhân vật Mị
Thành công xuất sắc nhất của Tô Hoài trong truyện “Vợ chồng A Phủ” là ở hình tượng nhân vật Mị.
Số phận của Mị
Mị là một cô gái dân tộc Mông. Số phận của Mị tiêu biểu cho sô' phận của người phụ nữ nghèo ở miền núi ngày trước: có đầy đủ phẩm chất để được sông hạnh phúc nhưng lại bị đày đọa trong cuộc sông nô lệ.
Mị là một cô gái trẻ đẹp, lại có tài thổi sáo. Trai làng nhiều người mê MỊ. Mị đã có một quãng đời con gái được yêu đương và hạnh phúc. Đó cũng là một người con gái có tâm hồn đẹp và giàu sức sông, muôn làm chủ cuộc đờ.i mình bằng sức lao động của chính mình: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bô'. Bô' đừng bán con cho nhà giàu”. Mị muôn trả nợ thay cho bô' bằng lao động chứ không phải bằng tự do và tuổi thanh xuân của một người con gái.
- Nhựng nhà thông lí Pá Tra đã bắt cóc Mị về làm dâu để trừ nợ. Cuộc đời của Mị đã bị tước đoạt từ đó. Tiếng là làm dâu nhà quan, nhưng thực chất là kiếp sông nô lệ, kiếp sông đày tớ.
Căn buồng của Mị “kín mít, có một chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”, gợi ám ảnh về một thứ ngục tù giam hãm đời Mị.
Năm tháng của Mị chỉ là “những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại.. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế”.
Cách bóc lột và đôi xử tàn nhẫn của nhà thông lí đã biến Mị thành một con người lặng lẽ cam chịu kiếp sông trâu ngựa, thậm chí không bằng cả con trâu, con ngựa.
Tô Hoài đã dụng công khắc họa đậm nét hình ảnh một người con gái bị tước đoạt quyền sông đến mức tâm hồn đã trở nên câm lặng : “... một cô con gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựạ. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe SUÔI lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Ân tượng nhất là hình ảnh “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
Khát vọng sống của MỊ
Bị vùi dập đến tận cùng, nhưng ở người con gái bất hạnh ấy vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt. Cái tài của Tô Hoài là đã phát hiện bên trong “con rùa lùi lũi” kia vẫn âm ỉ một khát vọng hạnh phúc lớn lao, và đã diễn tả sự trỗi dậy mạnh mẽ của khát vọng ấy bằng một quá trình phát triển tính cách gồm ba chặng với những diễn biến tâm lí vô cùng phong phú và phức tạp.
Ngày mới bị bắt về nhà thống lí Pá Tra
Mị đã có ý thức phản kháng ngay từ khi bị bắt về nhà thông lí: “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Mị đã trốn về nhà định chào vĩnh biệt cha để “đi chết”. Hành động tự tử của Mị là một cách chống đối lại thân phận nô lệ. Dầu không phải là một con đường giải thoát tích cực nhưng nó đã biểu hiện sâu sắc khát vọng tự do.
Nhưng vì thương bố, MỊ không nõ' chết. Lòng hiếu thảo đã khiến Mị chấp nhận hi sinh khát vọng của mình, quay trở lại với cuộc sống của đứa con dâu bất đắc dĩ nhà thống lí. Rồi “ở lâu trong cái khổ, MỊ quen khổ rồi”. MỊ cũng không nghĩ đến việc ăn lá ngón để tự tử nữa. Khi Mị không còn nghĩ đến cái chết, có nghĩa là Mị không còn ý thức về sự sống. Tâm hồn người con gái ấy đã trở nên chai sạn và câm nín như “tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Tưởng chừng sức sống đã tắt lịm trong cái lốt của một con rùa.
Đêm tình mùa xuân
Chỗ sâu sắc nhất trong tình cảm nhân đạo của Tô Hoài là nhà văn tin rằng dù trong hoàn cảnh nào, con người vẫn không tắt đi khát vọng sống. Khát vọng sống trong Mị vẫn như một ngọn lửa âm ỉ dưới lớp tro tàn, chờ có dịp để bùng cháy trở lại. Và dịp ấy chính là một đêm tình mùa xuân...
Đã biết bao mùa xuân đi qua, Mị không nhớ và cũng không biết đến. Nhưng mùa xuân năm ấy thật đặc biệt. Các làng Mèo ở Hồng Ngài ẳn Tết “giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội”. Ngày Tết, MỊ cũng uống rượu. Mị ngồi bên bếp lửa, “tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng” nhưng “lòng Mị thì đang sông về ngày trước”.
Tiếng sáo đánh thức tâm hồn Mị, đánh thức khát vọng hạnh phúc trong Mị. Tiếng sáo của hiện tại đánh thức tiếng sáo trong quá khứ, đưa Mị trở về với những mùa xuân cũ của một thời con gái ngọt ngào hạnh phúc yêu đương. VỊ ngọt ngào của quá khứ bất giác lại nhắc nhớ vị cay đắng trong hiện tại - một cuộc sông không có tự do, không có tình yêu và hạnh phúc. Mị thấm thìa đau khổ, lại nghĩ đến cái chết.
Hiện tại và quá khứ, tliân phận và khát vọng giao tranh gay gắt trong Mị. Căn phòng với “cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng” lại hiện ra đầy ám ảnh, nhưng vẫn không ngăn được khát vọng của Mị. “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muôn đi chơi”, MỊ thay váy áo chuẩn bị đi chơi. Đến lúc bị A Sử trói đứng vào cột nhà, “MỊ vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi” và “Mị vùng bước đi”. Cảm giác đau nhức vì sợi dây trói, cảm giác đau khổ vì “nghĩ rằng mình không bằng con ngựa” cứ đan xen với trạng thái “nồng nàn tha thiết nhớ” trong hơi rượu và tiếng sáo suốt cả đêm.
Hành động “tháo cũi sổ lồng” của Mị bị vùi dập phũ phàng nhưng đã chứng tỏ sự tồn tại bền bỉ và mãnh liệt của sức sống trong tâm hồn MỊ.
Đêm đông cứu A Phủ
Và sức sống ấy lại trỗi dậy lần thứ ba. Đó là một “đêm mùa đông trên núi cao”. Mị hiện ra trong bóng dáng một thiếu phụ cô đơn lặng lẽ bên bếp lửa
Mấy đêm liền, nhìn thấy A Phủ bị trói đứng giữa trời, “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay”. Tâm hồn Mị đã trở lại với sự câm lặng, vô cảm từ sau “đêm tình mùa xuân” ấy.
Cho đến khi nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ, Mị mới xúc động, nhó lại những dòng nước mắt và nỗi khổ của mình.
Thương mình dẫn đến thương người cùng cảnh ngộ, Mị châp nhận chịu sự trừng phạt của nhà thông lí và quyết định cắt dây trói cứu A Phủ.
Khi A Phủ chạy đi, “Mị đứng lặng trong bóng tối” và ngay sau đó “vụt chạy” theo A Phủ. Hành động ấy diễn ra một cách tức thời, không cần có một sự suy tính nào. Đó là hành động bất ngờ nhưng tất yếu. Người phụ nữ tưởng đã hoàn toàn câm lặng như Mị lại có thể có một hành động táo bạo, quyết liệt là cắt dây trói cứu A Phủ và đồng thời cũng giải thoát cho chính mình. Hành động ấy bất ngờ nhưng không vô lí bởi nó hoàn toàn phù hợp với tính cách của Mị — một người con gái giàu sức sống.
Nhân vật A Phủ
A Phủ là nhân vật được miêu tả sóng đôi với Mị, góp thêm một thân phận người lao động nghèo vào bức tranh hiện thực của tác phẩm.
Đó là một người thanh niên lao động giỏi giang, thạo công việc, cần cù, chịu khó, con gái trong làng nhiều ngựời mê, nhưng “không có ruộng, không có bạc, A Phủ không lấy nổi vợ”.
Cuộc sông đơn độc và tự do của người con trai nơi núi rừng đã hình thành ở A Phủ một tính cách mạnh mẽ, gan góc, dám chống trả với bất công (bị bắt bán xuống vùng xuôi nhưng lại trôn về; dám đánh A Sử con nhà quạn; bị những trận mưa đòn mà không hề kêu van; bị trói vào cột, dùng răng nhay đứt hai vòng mây...). Tinh thần phản kháng đó là cơ sở để sau này, khi gặp A Châu - người cán bộ của Đảng, A Phủ nhanh chóng giác ngộ cách mạng, tham gia du kích, tích cực đấu tranh để giải phóng mình và giải phóng quê hương.
Đặc sắc nghệ thuật
Nghệ thuật truyện Vợ chồng A Phủ có nhiều nét đặc sắc.
Với biệt tài miêu tả thiên nhiên và phong tục xã hội, Tô Hoài đã tạo dựng được một không gian nghệ thuật mang đậm màu sắc dân tộc độc đáo ở vùng cao Tây Bắc. Những bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng (cảnh xuân về trên bản Mông), những bức tranh sinh hoạt và phong tục độc đáo mang màu sắc phương xa xứ lạ (cảnh vui chơi trong ngày tết, cảnh thổi sáo gọi bạn tình, cảnh xử kiện, tục “cướp vợ”...) được miêu tả chân thực, sinh động, giàu chất thơ.
Nghệ thuật miêu tả tâm lí đã thể hiện được những diễn biến tâm lí vô cùng phức tạp và quá trình phát triển tính cách của nhân vật, góp phần làm sâu sắc thêm giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
c. Tổng ket
Vợ chồng A Phủ là câu chuyện về những người dân lao động vùng cao Tây Bắc không earn chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối đã vùng lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do.
Tác phẩm khắc họa chân thực những nét riêng biệt về phong tục, tập quán, tính cách và tâm hồn người dân các dân tộc thiểu sô' bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, đượm màu sắc và phong vị dân tộc, vừa giàu tính tạo hình vừa giàu chất thơ.
ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề 1: Hãy phân tích nhân vật A Phủ (chú ý nêu rõ vai trò của nhân
vật này trong việc khắc họa chủ đề tác phẩm).	
GỢI Ý
Nửa đầu của truyện Vợ chồng A Phủ kể về quãng đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, trong nhà thông lí Pá Tra. ở phần này, A Phủ là nhân vật phụ, nhưng có tác dụng làm nổi bật hình tượng nhân vật chính là Mị và khắc họa rõ hơn chủ đề tác phẩm.
A Phủ mồ côi cả cha lẫn mẹ vì nhà bị chết dịch. Có người bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái. Tuy mới mười tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, trôn thoát lên núi, rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ thành một chàng trai khỏe mạnh “chạy nhanh như ngựa”, lao động giỏi, lại “săn bò tót rất thạo”. Vì thế, A Phủ trở thành niềm mơ ước của bao cô gái. Họ bảo nhau: “Đứa nào được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà”. Tuy vậy, A Phủ suốt đời làm thuê làm mướn, nghèo đến nỗi không thể nào lấy được vợ và cũng không có nổi cả cái vòng bạc để đi chơi ngày Tết như bao chàng trai Hmông khác. Chính hoàn cảnh khắc nghiệt này đã góp phần tạo nên ở A Phủ tính cách gan góc, táo bạo và một sức sông mạnh mẽ. Hình ảnh A Phủ khiến người đọc nhớ tới những nhân vật chàng Mồ Côi, chàng Khó tràn đầy sức lực, lao động giỏi và giàu nghĩa khí trong văn học dân gian.
A Phủ dám đốì mặt với bọn con quan một cách thật hùng dũng và đầy tự tin. Anh sẵn sàng trừng trị kẻ đã phá cuộc vui của bạn bè mình. Cũng vì thế, A Phủ bị trói mang đến nhà Pá Tra để xử kiện. Cuộc xử kiện quái lạ này thực chất chỉ là một cuộc tra tấn dã man để cuối cùng A Phủ vô cớ phải trở thành người nô lệ gạt nợ cho nhà thông lí. Bằng ngòi bút miêu tả phong tục bậc thầy, Tô Hoài đã làm hiện rõ trước mắt người đọc một cuộc xử kiện sông động và giàu sức tố cáo, từ đó vạch trần cách áp bức dã man, trắng trợn kiểu trung cổ của bọn thông trị miền núi. Qua “làn khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn ra các lỗ cửa sổ”, cứ hút xong một đợt thuốc phiện Pá Tra lại ra lệnh, trai làng lại từng đợt, từng đợt thay nhau lạy tên thông lí lia lịa rồi xông vào đánh A Phủ. Còn người thanh niên khôn khổ này chỉ biết im lặng chịu đòn “suốt chiều, suốt đêm”. Như vậy, tuy là một chàng trai tự do của núi rừng, A Phủ vẫn không thoát khỏi nanh vuốt của bọn chúa đất. Từ đây, anh bỗng vĩnh viễn trở thành con trâu, con ngựa, như một nô lệ cho nhà Pá Tra. Hơn nữa, cho đến cả đời con, đời cháu, bao giờ trả hết nợ mới thôi. Và nếu không gặp Mị, chắc chắn A Phủ đã phải chết một cách thê thảm tại nhà thông lí.
Ớ phần này, câu chuyên về A Phủ - người nô lệ gạt nợ đã bổ sung cho câu chuyên của Mị - người con dâu gạt nợ, để hoàn thiện bản án về tội ác của bọn chúa đất đối với những người lao động lương thiện ở miền núi trước Cách mạng.
Đề 2: Theo anh (chị), trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, tư tưởng nhân đạo của Tô Hoài có gì đặc sắc, móỊi mẻ ?
GỢI Ý
Tư tưởng nhân đạo của Tô Hoài ở đoạn trích trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” đặc sắc ở chỗ: nhà văn không chỉ tô' cáo tội ác của bọn chúa đất và thực dân, không chỉ đồng cảm xót thương người dân nghèo, mà còn phát hiện và miêu tả sức sống tiềm ẩn, niềm khao khát tự do và hạnh phúc ở những con người do hị đày đọa triền miên trong lao động cực nhọc và bị hành hạ tàn tệ dường như đã mất hết ý thức về đời sống (qua số phận và tính cách nhân vật Mị).
Đề 3: Có ý kiến cho rằng trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, tác giả đã tạo được khí vị đặc trưng của Tây Bắc. Anh (chị) nhận xét như thế nào về ý kiến đó ?
GỢI Ý
Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã tạo được khí vị đặc trưng của Tây Bắc.
Bằng vốn hiểu biết phong phú, khả năng quan sát sắc sảo và năng lực dựng người, dựng cảnh tinh tế,... tác giả đã phác họa được những bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng, thể hiện được nhiều phong tục độc đáo và miêu tả sinh động những người Hmông hồn nhiên, ngay thẳng. Từ cảnh xuân về trên bản, đến cảnh vui chơi trong ngày Tết, cảnh xô xát giữa hai đám thanh niên, thấm chí cảnh xử kiện,... tất cả đều được khắc họa sinh động. Tài tình tạo nên khí vị đặc trưng của vùng núi Tây Bắc cụ thể, xác thực, giúp người đọc hiểu thêm về phong tục, con người, cảnh vật của miền đất xa xôi này. Ví dụ như đoạn tả mùa xuân dưới đây:
“Trên đầu núi, các nương ngô, nương lú gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài, người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gạt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. An Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuông thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội.
Nhưng trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xò như con bướm sặc sỡ. [...] Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lâp ló có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghẹ tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi. MỊ ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi:
Mày có con trai con gái rồi Mày đi làm nương Ta không có con trai con gái Ta di tìm người yêu
Tiếng chó sủa xa xa.Những đêm tình mùa xuân đã tới”.
Sở dĩ Tô Hoài tạo được khí vị đặc trưng của Tây Bắc vì ông có khả năng quan sát sắc sảo, có tài dựng người, dựng cảnh, có sở trường miêu tả phong tục tập quán, nhát là có vốn hiểu biết phong phú, đa dạng về Tây Bắc, về miền núi nói chung.
Đề 4: Hãy chỉ rõ những thành công tiêu biểu của Tô Hoài ở phương diện nghệ thuật trong truyện ngắn này.
GỢIỴ
- Thành công lớn nhất là nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Mị và A phủ đều vừa có những nét tiêu biểu cho những người nghèo khổ ở miền núi trước Cách mạng, vừa có một vài nét cá tính tương đốỉ rõ. Mị bề ngoài lặng lẽ, âm thầm nhưng bên trong sôi nổi một niềm ham sông, khao khát dược sông tự do và hạnh phúc. A Phủ táo bạo, gan góc mà chất phác, tự tin. Và tuy cùng là nạn nhân của chế độ tàn, ác, cùng tiềm ẩn chất phản kháng, nhưng tính cách Mị và A Phủ được tác giả thể hiện cũng khác nhau. Là người quen sông tự lập nơi núi rừng, A Phủ mạnh mẽ, táo bạo và do đó, sau này đến với cách mạng cũng dễ dàng hợn.MỊ là cô gái từng sông nhiều năm trong tù hãm, nên tuy đã trôn khỏi Hồng Ngài nhưng cô vẫn bị ám ảnh bởi uy thế khủng khiếp của cha con Pá Tra. Sau này, Mị đến với cách mạng cũng dè dặt hơn.
Trong khi xây dựng nhân vật, Tô Hoài đã đặc biệt thành công qua bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật. Điều đó thể hiện rõ nét ở việc nhà văn khắc họa tâm lí nhân vật trong hai tình huống: “đêm tình mùa xuân” và đêm Mị cởi trói cho A Phủ.
Tô Hoài vốn là nhà vãn có biệt tài miêu tả thiên nhiên và phong tục xã hội. Trước Cách mạng, có nhà nghiên cứu xếp Tô Hoài vào nhóm các nhà văn phong tục cùng với Bùi Hiển, Trần Tiêu,... cần thấy, phong tục không chỉ là chuyện hình thức mà thực chất là đặc trưng văn hóa của mỗi dân tộc. Miêu tả chân thực, sông động phong tục chính là miêu tả đúng linh hồn của một cộng đồng cư trú ttrên một vùng lãnh thổ. Sở trường này được thể hiện đậm nét trong “Vợ chồng A Phủ”.
Ngoài ra, không thể không kể đến nghệ thuật trần thuật của Tô Hoài
trong tác phẩm này. Nhìn chung, Tô Hoài vẫn tuân theo cách trần thuật trong các truyện cổ dân gian, tức là trần thuật lần lượt các sự kiện theo trình tự thời gian. Tuy vậy, ở đây các chi tiết được sắp xếp một cách lôgic và rất tự nhiên, những chỗ chuyển cảnh đều rất chặt chẽ, hợp lí. Chẳng hạn đang nói về sô' phận Mị, chuyển sang nói về A Phủ rất tự nhiên, người đọc thấy truyện như một dòng chảy liền mạch. Đặc biệt những đoạn nhà văn trần thuật lai lịch của Mị và A Phủ đều ngắn gọn với những chi tiết chọn lọc thể hiện rõ nét sô' phận và tính cách của mỗi người.	■
Đề: “Chính cái nửa Hồng Ngài này mới thật là tập trung anh hoa của ngòi bút Tô Hoài về Tây Bắc. Không chỉ vì nó đem lại những hương sắc lạ về cảnh trí; con người. Những trang viết về Hồng Ngài đẹp còn vì, và chủ yếu bởi vì nó kết đọng một tình cảm nhân đạo đậm đà, một khả năng phân tích tinh tế những diễn biến đầy mâu thuẫn của nội tâm; và bao trùm lên tất cả chính là điều mà sau này Tô Hoài cảm thấy: Một chất thơ vời vợi bay lên từ cảnh vật và nhân vật của nơi núi rừng tuyệt vời thơ mộng ấy” (Đỗ Kim Hồi).
Phân tích phần thứ nhất trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài để làm rõ nhận định trên.
DÀN BÀI CHI TIẾT
Đặt vấn đề
Ân tượng về Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài tập trung chủ yếu ở phần đầu, gắn với cuộc đời trong bóng tô'i của Mị và A Phủ.
Nêu nhận định: nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật, sở trường của Tô Hoài: miêu tả thiên nhiên, am hiểu cuộc sống và con người vùng núi cao Tây Bắc.
Giải quyết vấn đề
Tổng
Vợ chồng A Phủ là kết quả của tám tháng thâm nhập thực tế, ghí nhận sự gắn bó của Tô Hoài với Tây Bắc, miền đất “để thương để nhớ”.
Đề tài cuộc sông và con người vùng cao Tây Bắc - hiện thực đầy xung đột trong cuộc sống trước khi có ánh sáng cách mạng. Nhà văn đã tạo được một thế giới nghệ thuật riêng mang dấu ấn Tô Hoài. Ông quan tâm cuộc sông những người dân nghèo, nạn nhân thê thảm của xã hội cũ, gắn địa bàn - không gian Tây Bắc vốn còn xa lạ trong văn chương, giúp hiểu thêm nét đặc sắc trong văn hoá - phong tục người Mông.
Mục đích không phải mô tả phong tục, văn hóa của người Mông mà tiếp nối truyền thống văn chương nhân đạo, kết hợp cả tinh thần Thạch Lam và Nam Cao - chất trữ tình và hiện thực nhân đạo - văn Tô Hoài tạo được phong vị riêng.
Vợ chồng A Phủ là bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người vùng cao trong ách áp bức, bài ca sức sông khát vọng tự do hạnh phúc. Tinh thần thể hiện tập trung phần đầu - gắn số’ phận Mị, nhân vật trung tâm - tái hiện quãng đời quá khứ đến cuộc sống hiện tại, khắc họa vẻ đẹp của một tâm hồn ham sông, khát vọng hạnh phúc, quá trình đấu tranh thoát khỏi cuộc sông cùng nhục, nô lệ.
Phân
Hương sắc lạ về cảnh trí, con người
Đây là một trong những yếu tô' làm nên sức hấp dẫn của tác phẩm, cung cấp những nét văn hoá, phong tục riêng biệt của người Mèo (Mông): không gian mùa xuân rực rỡ sắc màu, độc đáo với những đêm tình mùa xuân trong giai điệu sáo Mèo nổi tiếng. Tục cướp vợ, phạt vạ phản ánh tâm lí, tín ngưỡng và văn hóa của người Mèo. Tất cả được dựng lên rất sinh động.
Đây là kết quả quá trình quan sát, mức độ am hiểu sâu sắc phong tục tập quán, sinh hoạt hằng ngày. Năng lực tưởng tượng và tài miêu tả sở trường của nhà văn. Nhưng mô tả hiện thực, nhà văn không dừng ở bề ngoài mà giá trị thật sự nằm bên trong hương sắc lạ về cảnh trí, con người.
Tình cảm nhân đạo đậm dà
Tình tiết truyện xoay quanh sô' phận của một người phụ nữ vùng cao - diễn biến sô' phận gắn cảm hứng đặc biệt của nhà văn xoay quanh con người bé nhỏ - mang ý nghĩa điển hình hóa cao độ.
Câu chuyện làm dâu: chứa đựng những đắng cay, trớ trêu của cuộc sông bị cương tỏa trong cường quyền và thẩn quyền. Cường quyền là sự tàn bạo của cha con thông lý Pá Tra, hủy diệt sức sông, biến con người thành trâu ngựa. Thần quyền - con ma vô hình nhà thông lí ràng buộc ý thức, tinh thần con người, là sợi dây trói vô hình cột chặt thân phận vào kiếp sông nô lệ (gợi lại Tiếng hát làm dâu).
Những chi tiết trong cuộc sống ấy không chỉ liên quan đến cuộc đời riêng của Mị, nó còn là cuộc đời của tất cả những người đàn bà trong nhà thông lí: người chị dâu lưng còng, người đàn bà bị trói đến chết. Những lúc ấy, cảnh trí đầy hương sắc lạ chỉ làm tăng thêm cảm giác..bi phẫn trước nỗi thông khổ của con người. Những phong tục cướp vợ, phạt vạ thành nguyên cớ đẩy con người dấn sâu vào kiếp nô lệ, cụ thể hoá trong cuộc đời Mị - cô con dâu gạt nợ, A Phủ - con ở gạt nợ, những món nợ truyền kiếp, bất công, khủng khiếp tước đoạt quyền sông, quyền làm người.
Giúp người đọc hình dung đầy đủ cuộc sông thực của những người như Mị, A Phủ, tác giả đã đạt đến chuẩn mực điển hình hóa trong văn chương. Đặc biệt, thể hiện tình cảm yêu thương, trân trọng, nâng niu, bênh vực nạn nhân của cường quyền và thần quyền, khơi gợi cảm xúc đồng điệu ở độc giả, hiểu rõ chất độc ẩn ở đằng sau vẻ rực rỡ của hoa anh túc sặc sỡ có thể hủy diệt sức sông con người đến tận cùng. Nhưng vượt lên là niềm tin tuyệt đối của nhà văn vào sức sông tiềm tàng của con người. Khả năng đi sâu diễn giải những nghịch lí trong tâm hồn, khẳng định ý thức làm người, lòng ham sông, khát vọng tự do và hạnh phúc không bị dập tắt.
Khả năng phân tích những diễn biến đầy mâu thuẫn của nội tâm
Sức mạnh của văn chương thể hiện ở chỗ bao giờ cũng hướng đến chiều sâu cuộc sông trong tâm hồn con người. Đi vào thế giới nội tâm để giúp hiểu bản chất đời sông, lí giải rõ cách nhìn, thái độ của nhà văn. Tô Hoài quả thật có biệt tài khi diễn tả sông động những khoảnh khắc, những hoàn cảnh mà nhân vật phải trải qua những xung đột căng thẳng, làm bật lên ý nghĩa tình huống truyện.
Trước hết là khả năng xác lập những không gian riêng có sức khơi gợi tâm trạng, lay thức suy ngẫm (Không gian mùa xuân ở Hồng Ngài, những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn).
+ Đó còn là khả năng chuyển hóa từ ngoại giới vào tâm hồn, tác động trực tiếp của cảnh vật, âm thanh, ánh sáng, màu sắc...
+ Khả năng tạo dựng những chi tiết điển hình hóa cao độ, cụ thể hóa những cảm giác, ấn tượng để tạo những liên tưởng sâu sắc, phong phú ở người đọc.
+ Đó còn là khả năng tạo tình thế xung đột căng thẳng, dồn nén tâm lí nhân vật, tạo nên kịch tính.
(Phân tích, diễn giải qua hai trường đoạn đã nêu, gắn với bước ngoặt cuộc đời nhân vật Mị).
Qua khả năng này cũng chứng tỏ độ nhạy cảm của Tô Hoài, đồng thời cũng làm rõ cho vẻ đẹp nhân vật, tạo cái nhìn toàn diện về Mị, có giá trị phát hiện, tạo sức sông cho nhân vật trong lòng người đọc.
Chất thơ vời vợi bay lên từ cảnh vật và con người
Chất thơ bao trùm: hương sắc lạ của cảnh vật và con người — tình cảm nhân đạo - khả năng phân tích nội tâm.
Chất thơ khơi lên từ hiện thực khách quan của mảnh đất và con người Tây Bắc, thể hiện năng lực cảm nhận đặc biệt của nhà văn.
Chất thơ khơi lên từ tình cảm nhân ái của nhà văn hướng đến con người, ca ngợi sự sông, tự do, hạnh phúc.
Chất thơ khơi lên từ trí tưởng tượng, năng lực sáng tạo dồi dào giúp nhà văn phát hiện những vẻ đẹp ẩn sâu, tiềm tàng trong -cuộc sông tưởng chừng bị dập tắt mọi sự phản kháng và sức sông. Nhờ vậy, khơi lên tình cảm của người đọc với nhân vật, tạo cảm giác gần gũi, độ hấp dẫn, sâu sắc.
c. Hợp
Với những khía cạnh đã nêu, tác phẩm Vợ chồng A Phủ xúng đáng là tác phẩm tiêu biểu về đề tài miền núi, tiêu biểu của vãn xuôi hiện đại Việt Nam, có sức sông lâu bền.
Tác phẩm còn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Tô Hoài, đỉnh cao của tài năng, độ chín của tư tưởng và tâm hồn nhà văn sau cách mạng. Trên tất cả là tấm lòng nhà văn dành cho mảnh đất và con người Tây Bắc, là sự đền đáp với ân tình Tây Bắc. Đồng thời là cơ sở khẳng định cho một nhận thức mới của nhà văn về con người và cuộc sông, đáp ứng yêu cầu của văn học thời đại, góp phần làm nhiệm vụ phản đế - phản phong của văn chương thời bấy giờ.
Kết thúc vấn đề
Đã hơn nửa thế kỉ trôi qua kể từ khi nhà văn đặt chân lên mảnh đất Tây Bắc, hoa anh túc không còn, tiếng sáo vẫn dặt dìu lòng người để người đọc sẽ còn nhớ mãi chất thơ ngọt ngào trong tâm hồn nhà văn qua từng con chữ “Vợ chồng A Phủ”.
Hieu về những đau thương trong cuộc đời cũ qua tác phẩm pũng để chúng ta hiểu được ý nghĩa của sự hồi sinh sức sông nhờ cách mạng. Điều quan trọng hơn là hiểu sức mạnh của khát vọng sông tự do hạnh phúc sẽ giúp con người vươn lên vượt qua nghịch cảnh, tạo dựng cuộc đời mới cho bản thân.
Đề'. Phân tích ngắn gọn nghệ thuật đặc tả của Tô Hoài trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, vào đêm Mị cắt dây trói cứu A Phủ để thấy
rõ ý nghía bước ngoặt cuộc đời nhân vật.	
BÀI VIẾT GỢI Ý
Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) là tác phẩm xuất sắc của văn xuôi kháng chiến chông Pháp, tạo xúc động cho người đọc người xem về sô' phận của MỊ - cô con dâu gạt nợ nhà thông lí Pá Tra. Truyện ngắn này tiềm ẩn những yếu tô' điện ảnh, giàu giá trị tạo hình và tinh tế trong sử dụng ngôn ngữ tạo dựng không gian truyện. Nét đặc sắc của truyện không chỉ tập trung trong không gian mùa xuân Hồng Ngài, nhà văn đã tập trung vào tiếng sáo như phản chiếu sức sông tiềm tàng của nhân vật Mị, mà còn thể hiện đặc sắc trong đêm cắt dây trói cứu A Phủ. Bảy đoạn văn đặc tả không gian tương phản sáng - tô'i thể hiện sâu sắc bước ngoặt cuộc đời Mị.
Mở ra là những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Bóng đêm dày đặc ấy là ám ảnh cuộc đời đầy bóng tối của Mị. Nỗi buồn thân phận còn hiện hình khi A Phủ đang bị trói đứng chờ chết ở cái cọc oan khiên anh đã tự đóng xuống để ràng buộc cuộc đời con ở gạt nợ. Dẫu cho hàng đêm Mị ra ngồi sưởi lửa thì cũng không thể xua tan đi giá rét đã đóng băng trong tâm hồn cô.
Ngọn lửa sưởi bùng lên cũng là lúc A Phủ lại mờ mắt thế nhưng MỊ vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chẽt đứng đấy, củng thế thôi. Mị vẫn trở dây, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Ngôn ngữ lột tả tột cùng hình ảnh một người vô cảm, hành động theo thói quen. Trong nỗi đau của mình, MỊ không để ý đến nghịch cảnh của người khác, vả lại những cảnh này đã quá quen thuộc ở nhà thông lí. Lửa sáng mà lòng tối ! Cho đến cái đêm quyết định ...
Ngọn lửa bập bùng sáng lên cũng là lúc Mị nhận ra dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ - nỗi uất ức của một người sắp chết trong tuyệt vọng. Đó là lúc Mị nhớ lại cảnh mình từng bị trói, đến người đàn bà bị trói đến chết ở cái nhà này. Cùng kí ức là nhận thức chúng nó thật độc ác. Nhưng suy nghĩ ấy mới chỉ là dấu hiệu của lòng thương cảm mà chưa hất bỏ được cái bóng ám ảnh con ma nhà thông lí - định mệnh sẽ trói buộc Mị đến chết. Lửa bập bùng soi những ý nghĩ phảng phất của Mị.
Rồi đám than đã vạc hẳn lửa, cũng là thời khắc MỊ nhớ lại đời mình. Ngọn lửa sức sông tiềm tàng như than hồng trong tro đã giúp cô vượt lên nỗi sợ hãi, hình thành ý định giải cứu A Phủ - dẫu phải trói thay, chết trên cái cọc ấy, làm sao Mị cũng không thấy sợ. Theo lô-gíc tư duy ấy, tất yếu sẽ phải là trong nhà đã tối bưng, cimgjuc Mị cắt dây trói cứu A Phủ. Hành động ấy như hệ quả tất yếu của tình thương, sự bừng sáng của nhận thức, đồng cảm. Nhưng kết thúc hành động ấy, Mị chưa cắt sợi dây trói vô hình buộc chặt đời mình với nhà thông lí (như nhiều bài viết tham khảo kết luận vội vàng !). Nhà văn hạ xuỗng đoạn một câu diễn tả khoảnh khắc sau phút hốt hoảng của Mị: MỊ đứng lặng trong bóng tối.
Tiếp liền đó, ông đảo trật tự câu tả ở đoạn sau: Rồi MỊ cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Đây mới là thời điểm Mị thật sự cắt sợi dây trói vô hình, tự giải thoát khỏi cảnh nô lệ. Hành động ấy là ánh sáng vượt qua bóng tôl dày đặc của không gian, khẳng định khát vọng sông, khát vọng tự do mãnh liệt của nhân vật. Một trường đoạn dụng công nghệ thuật của Tô Hoài đã làm rõ sự thức tỉnh và gặp gỡ của những con người đau khổ, vượt lên bóng tôl đời mình.