Soạn bài Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành, 1965)

  • Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành, 1965) trang 1
  • Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành, 1965) trang 2
  • Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành, 1965) trang 3
  • Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành, 1965) trang 4
  • Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành, 1965) trang 5
  • Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành, 1965) trang 6
  • Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành, 1965) trang 7
  • Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành, 1965) trang 8
  • Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành, 1965) trang 9
  • Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành, 1965) trang 10
  • Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành, 1965) trang 11
RỪNG XÀ NU
Nguyễn Trung Thành
KIẾN THỨC Cơ BẢN
A. Giới thiệu
Nguyễn Trung Thành (bút danh khác là Nguyên Ngọc), tên khai sinh là Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1932, quê ở Quảng Nam, nhưng trong suốt hai cuộc kháng chiến chôhg Pháp và chông Mĩ, nhà văn chủ yếu sông ở Tây Nguyên. Ông có hiểu biết sâu sắc, gắn bó mật thiết với cảnh vật và con người thuộc các dân tộc Ba-na, Ê-đê, Gia-rai,... ở vùng đất này. Nhờ đó, Nguyên Ngọc viết nhiều và viết rất hay về Tây Nguyên. Với tiểu thuyết Đất nước đứng lèn (1956) và truyện ngắn Rừng xà nu (1965), Nguyên Ngọc được khẳng định là nhà văn của Tây Nguyên.
Nguyên Ngọc rất nhạy cảm với những gì quyết liệt và có chất hoang dã. Đây là cây bút có nhiều thành công khi viết về những nhân vật là con đẻ của núi rừng hùng vĩ, đầy bí ẩn. ông suốt đời đi tìm cái anh hùng, cái cao cả. Trong những sáng tác về Tây Nguyên nói riêng và những sáng tác của Nguyên Ngọc nói chung, nhà văn thường viết về những vấn đề trọng đại của dân dộc, của đất nước, xây dựng những nhân vật anh hùng tiêu biểu cho ý chí và nguyên vọng của nhân dân, với giọng văn hào sảng, trang trọng.
Truyện ngắn Rừng xà nu
Hoàn cảnh sáng tác
Tháng 3 năm 1965, thủy quân lục chiến Mĩ ào ạt đổ quân vào bãi biển Chu Lai, Đà Nẵng. Nguyễn Trung Thành viết Rừng xà nu vào một thời điểm nghiêm trọng ấy của dân tộc, của đất nước, với ý muôn viết một bài hịch cổ vũ mọi người đứng lên chiến đấu giành lại độc lập, tự do.
Chủ đề của tác phẩm chính là lời cụ Mết kêu gọi dân làng Xô Man: “Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sông phải nói lại cho con cháu: chúng nó đã cầm súng, minh phải cầm giáo !”. Lời kêu gọi đó cũng khẳng định một quy luật: ở đâu có áp bức thì ở đó đấu tranh, phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.
Tóm tắt cốt truyện
Làng Xô Man ở trong tầm đại bác của giặc. Đạn giặc tàn phá khóc liệt rừng xà nu, nhưng cũng như người dân Xô Man, rừng xà nu vẫn kiên cường vươn tới. Nhân dịp Tnú về thăm làng, nghĩ tại nhà cụ Mết, đêm đó, cụ kể cho dân làng nghe về cuộc đời Tnú... Những năm ấy, bọn địch khủng bố dã man phong trào cách mạng, nhưng làng Xô Man vẫn nuôi dưỡng cán bộ. Tnú và Mai là những thiếu niên dũng cảm vào rừng tiếp tế cho cán bộ. Tnú được cán bộ Quyết dìu dắt. Tnú làm liên lạc, sau bị địch bắt đi tù. Thoát tù, anh trở về cùng dân làng chuẩn bị chiến đấu. Được tin này, giặc kéo về làng. Trước cảnh vợ con bị tra tấn, Tnú đã nhảy vào giữa bọn lính cứu vợ con. Nhưng anh bị giặc bắt, vợ con anh bị chúng giết. Giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm dầu xà nu. Trước cảnh dã man này, dân làng nhất tề vùng lên giết giặc, cứu Tnú. Cụ Mết kêu gọi mọi người tự trang bị vũ khí để chiến đấu. Đêm ấy cả rừng Xô Man ào ào rung động... Rồi Tnú gia nhập bộ đội giải phóng. Anh khắc sâu mốì thù quân giặc và chiến đấu dũng cảm. Sau ba năm, Tnú được về thăm dân làng Xô Man trong một đêm rồi sáng hôm sau lại ra đi.
B. Đọc - hiểu văn bản
Hình tượng các nhân vật
Nhân vật Tnú
Tnú là một đứa trẻ cha mẹ mất sớm, lớn lên nhờ sự nuôi dưỡng, đùm bọc của dân làng Xô Man. Có lẽ vì thế, hơn ai hết, Tnú gắn bó với dân làng và có những phẩm chất của dân làng. Tnú được cụ Mết nhận xét: “Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước sưô'i làng ta”.
Tnú là người con gan góc, táo bạo của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ.
+ Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, bỏ ra ngoài suôi ngồi suốt ngày, sau đó, lấy một hòn đá “tự đập vào đầu, máu chậy ròng ròng” để sáng hôm sau lại ngượng ngùng gọi Mai ra phía sau hôc đá hỏi xem “chữ 0 có móc là chữ chi”.
+ Nhưng “đi đường núi thì đầu nó sáng lạ lùng”. Khi làm liên lạc, Tnú không đi đường mòn. Qua sông, không lội chỗ nước êm, mà “cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cỡi lên thác băng băng như một con cá kình”.
+ Khi bị địch đô't cháy mười ngón tay, Tnú nghiên răng chịu đựng chứ quyết “không thèm kêu van”.
Đây cũng là một con người có mối thù chồng chất với quân giặc. Chúng không chỉ giết hại dân làng mà còn giết hại vợ con anh và khiến hai bàn tay anh “mỗi ngón chỉ còn lại hai đôt”.
Tnú còn là một chàng trai dũng cảm và trung thành với cách mạng.
+ Những ngày ấy, làng Xô Man bị kẻ thù khủng bố điên cuồng “không bữa nào nó không đi lùng, không đêm nào chó của nó và súng của nó không sủa vang cả rừng”. Anh Xút bị giặc treo cổ lên cây vả đầu làng; bà Nhan bị chặt đầu cột tóc treo đầu súng vì đã vào rừng nuôi cán bộ. Sau cùng đến lũ trẻ thay người già làm việc này. Tnú và Mai là hai đứa trẻ hăng hái nhất. Có đêm, chúng ngủ luôn ở ngoài rừng, vì đề phòng giặc lùng phải có người dẫn cán bộ chạy.
+ Lòng trung thành với cách mạng của Tnú đã được bộc lộ qua nhiều thử thách. Khi bị giặc bắt, giải về làng, tra hỏi chỗ ở của cộng sản, Tnú đặt tay lên bụng mình và nói: ở đây này: Lưng Tnú ngang dọc vết dao chém của bọn lính.
+ Khi chứng kiến cảnh vợ con bị giặc tra tấn dã man bằng gậy sắt, mặc dù tay không, Tnú dũng cảm nhảy vào giữa lũ giặc đang điên cuồng. Nhưng anh không cứu được vợ con, bản thân bị giặc bắt và đốt hai bàn tay bằng giẻ tẩm dầu xà nu.
+ Khi được dân làng cứu thoát, dù hai bàn tay đã cụt đốt, Tnú gia nhập giải phóng quân như một tất yến.. Phẩm chất anh hùng của Tnú là ở chỗ biết vượt lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân: gia nhập bộ đội, chiến đấu dũng cảm, giết giặc để trả thù cho quê hương và gia đình.
Căm thù mãnh liệt, Tnú cũng là người biết yêu thương sâu sắc. Ba năm đi bộ đội, Tnú nhớ tha thiết cảnh và người của buôn làng quê hương.
Bàn tay Tnú
Trong cuộc đời đầy bi tráng của Tnú, chi tiết gây ấn tượng nhất là đôi bàn tay của anh. Nguyễn Trung Thành đã đặc biệt dụng công miêu tả bàn tay của nhân vật Tnú. Từ hình ảnh đôi bàn tay này, hiện lên không chỉ cuộc đời mà cả tính cách của nhân vật.
Khi còn lành lặn, bàn tay Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn, trung thành. Đấy là bàn tay cầm phấn học chữ do cán bộ Quyết dạy, bàn tay cầm đá tự ghè vào đầu mình để trừng phạt cái tội không nhớ mặt chữ, bàn tay đặt lên bụng mà nói “cộng sản ở đây này”,...; rồi tới khi thoát tù trở về làng, Tnú gặp Mai ở đầu rừng, Mai xúc động chảy nước mắt khi cầm hai bàn tay Tnú.
Bàn tay Tnú là bàn tay đau thương. Ân tượng mạnh nhất về bàn tay của Tnú chính là đoạn cao trào của truyện, cũng là đoạn đời bi tráng nhất của nhân vật: giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu vào mười ngón tay anh và dốt. “Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc”, thiêu cháy cả gan ruột Tnú, anh “nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát iẮôi anh”. Dầu xà nu rất thơm, nay đã khét lẹt mùi thịt cháy. Nhưng, mười ngọn đuô'c thịt da đó đã kịp làm mồi châm ngọn lửa cho dân làng nổi dậy. Sau tiếng thét của Tnú, theo lệnh của cụ Mết, trai tráng làng Xô Man không thể kiềm chế được nữa, họ đã vùng lên giết hết cả tiểu đội giặc, mở ra một trang sử đấu tranh mới của làng Xô Man. Từ đây, bàn tay Tnú trở thành bàn tay tật nguyền, mỗi ngón tay chỉ còn lại hai đốt, như một chứng tích về tội ác man rợ của kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời.
Bàn tay Tnú còn là bàn tay quả báo đối với kẻ thù. Tuy tàn tật, nhưng hai bàn tay ấy vẫn cầm được giáo, cầm được súng chiến đấu; hơn nữa, vẫn có thể bóp chết tên chỉ huy địch khi hắn cô' thủ trong hầm.
Như vậy, bàn tay Tnú được miêu tả trải dài theo suốt cả câu chuyện. Dường như mọi nét tính cách cũng như sô' phận và chiến công của Tnú đều gắn với hình ảnh hai bàn tay ấy.
Cũng như nhiều nhân vật trong văn học chông Mĩ, Tnú được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, giàu chất lí tưởng. Qua nhân vật này, Nguyễn Trung Thành mưốn thể hiện phẩm chất, số phận và nhất là con đường đến với cách mạng của nhân dân Tây Nguyên, nhân dân miền Nam trong quá trình đấu tranh giải phóng đất nước, giành độc lập, dân tộc.
Nhân vật cụ Mết
Cụ Mết là một già làng quắc thước, “sáu mươi tuổi rồi mà tiếng nói vẫn ồ ồ, dội vang trong lồng ngực”, râu “đã dài tới ngực và vẫn đen bóng”, mắt sáng và xếch ngược, ở trần, “ngực căng như một cây xà nu lớn”. Cách nói cũng khác lạ (nói như ra lệnh; không bao giờ khen “Tô't! Giỏi!”, những khi vừa ý nhất cũng chĩ nói “Được!”).
Cụ tin tưởng mãnh liệt vào dân tộc mình, quê hương mình. Theo cụ, “không cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”, và thứ gạo mà dân tộc Strá làm ra là thứ gạo ngon nhất vùng rừng núi này.
Cụ Mết là linh hồn của dân làng Xô Man. Cụ là người lưu giữ truyền thông của cộng đồng, dìu dắt các thế hệ nốì tiếp nhau sông xứng đáng với truyền thông.
Cụ Mết chính là nhân vật tượng trưng cho lịch sử, cho truyền thống hiền ngang, bất khuất, cho sức sống bền bỉ của dân làng Xô Man. Cụ Mết có những nét gần gũi với các nhân vật tù trưởng hùng mạnh thể hiện khát vọng, hoài bão của cả cộng đồng trong một số sử thi Tây Nguyên. Viết về cụ Mết, tác giả đã phát huy cao độ sức mạnh bút pháp sử thi với cảm hứng lãng mạn lí tưởng hóa; mặc dù đây là một già làng có thật, người đã lập nhiều thành tích xuất sắc trong kháng chiến chông Pháp (có thể sánh ngang với anh hùng Núp) ở làng Xóp Dùi, bắc Kông Turn.
Nhân vật Dít
Dít tiêu biểu cho lực lượng chiến đấu hôm nay, là sự tiếp nối tự nhiên truyền thông anh hùng bất khuất của cụ Mết, của Tnú, của Mai.
Cô bé Dít trưởng thành một cách nhanh chóng từ đau thương, ở cô bé này bộc lộ một sự gan góc và sức chịu đựng hiếm có.
Khi Tnú lên đường đi bộ đội, Dít thay Tnú lãnh đạo cuộc chiến đấu của dân làng, và cô đã xứng đáng với vị trí ấy. Nổi bật lên ở Dít là một tình cảm trong sáng, sâu sắc mà lặng lẽ, kín đáo ẩn bên trong vẻ nguyên tắc, lạnh lùng.
Qua cách thức đối xử với Tnú (đòi xem giấy phép), chứng tỏ Dít là con người nguyên tắc, nghiêm khắc, đặt việc của dân làng lên trên hết. Khi miêu tả Dít, nhà văn đặt biệt chú ý đến đôi mắt của cô: đôi mắt mở to, bình thản, trong suốt, đôi mắt nghiêm khắc.
Nhân vật bé Heng
Bé Heng có những nét tươi mát, sống động, tiêu biểu cho thế hệ xà nu non của làng Xô Man. Heng sẽ tiếp nối xứng đáng con đường đã chọn của cụ Mết, của Tnú, của Mai, của Dít.
Heng là hình ảnh của một lứa cây xà nu mới lớn, còn mang trong mình bao sinh lực tràn trề, hứa hẹn sẽ trở thành những cây xà xu rnạnh mẽ và bất tử. Đó là đại diện của thế hệ tương lai, tiếp nốì truyền thông và hứa hẹn sẽ đi xa hơn các thế hệ cha anh.
Ngoài những nhân vật cụ thể đã nêu, trong truyện “Rừng xà nu” còn thấy hình tượng nhân dân làng Xô Man nói chung. Đấy là những người có tên và không tên, người già và người trẻ, nam và nữ,... Họ sung sướng, vui mừng khi Tnú về thăm làng, họ lắng nghe cụ Mết kể chuyện, họ nhất loạt làm theo mệnh lệnh của già làng này - tức là một lòng chung thủy với cách mạng, kiên cường chiến đấu. Đây là một tập thể anh hùng. Chính vì thế, làng Xô Man đã sản sinh ra những người con ưu tú như Tnú.
* Cũng như nhiều nhân vật chính diện trong văn học cách mạng thời chông Mĩ, các nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít, vàbé Heng đều có nét giống nhau là trung thành với cách mạng, gắn bó với quê hương và căm thù quân giặc,... Tác giả miêu tả đậm nét các nhân vật ấy để khẳng định dân làng Xô Man nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung, từ thế hệ này sang thế hệ khác nối tiếp nhau không ngừng đứng lên đấu tranh bảo vệ quê hương đất nước.
Hình tượng cây xà nu
■ - Xà nu là một loại cây họ thông mọc rất nhiều ở Tây Nguyên. Đây là một thứ cây khỏe, giàu sức sống, có thể sinh sôi rất nhanh cả ở những nơi có khí hậu khắc nghiệt, đồi núi khô cằn. Người Tây Nguyên gắn bó mật thiết với cây xà nu. Họ sinh ra dưới tán xà nu, lớn lên, lam làm, sinh hoạt bên cây xà nu, đến lúc yêu đương hẹn hò cũng ở dưới gốc xà nu và khi nhắm mắt xuôi tay thì yên nghỉ dưới những cánh rừng xà nu bạt ngàn,...
Trong truyện ngắn này, rừng xà nu (và cây xà nu) là một “nhân vật” cực kì quan trọng. Chính vì thế, Nguyễn Trung Thành đã lấy tên nó để đặt nhan đề cho tác phẩm.
Ớ truyện ngắn này có tới khoảng hai mươi lần nhà văn trực tiếp hoặc gián tiếp nói đến cây xà nu, rừng xà nu, và những biến thể khác của cây xà nu như củi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu, nhựa xà nu, lá xà nu,...
Mở đầu câu chuyện là một đoạn văn được viết rất công phu tả rừng xà nu kiên cường vươn lên bất chấp bom đạn của kẻ thù: “rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương.c..) nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần bầm lại, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn. Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bôn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít loại cây ham ánh mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng,(...) Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã... Cứ thế, hai ba năm nay, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng...”.
Hình ảnh xà nu mở đầu và kết thúc tác phẩm có một ý nghĩa đặc biệt. Khép lại đoạn văn đầu tác phẩm là hình ảnh đồi xà nu: “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thây gì khác ngoài những đồi xà nu nôi tiếp tới chân trời”. Kết thúc truyện vẫn là điệp khúc ấy, chỉ thay chữ đồi bằng chữ rừng: “Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nốì tiếp chạy đến chân trời”. . Hình ảnh ấy vừa miêu tả sức sông mãnh liệt của cây xà nu, vừa tượng trưng cho sức sông bất diệt và đội ngũ hùng hậu của dân làng Xô Man, của các dân tộc Tây Nguyên'trong cuộc chiến đấu chông kẻ thù.
Ngoài phần mở đầu và kết thúc, trong câu chuyện về cuộc đời của Tnú, cuộc nổi dậy của dân làng, cây xà nu luôn được nhắc đến với một dụng ý ngliệ thuật rõ nét.
+ Trước hết, cây xà nu gắn bó mật thiểt với cuộc sống thường nhật của dân làng Xô Man, từ già chí trẻ, có thể nói nó đã ăn đời ở kiếp với mọi người. Đúng vậy, bao đời nay, lửa xà nu cháy giần giật trong bếp mỗi nhà. Trẻ con làng Xô Man mặt mày lem luốc khói xà nu; Tnú và Mai dùng tấm bảng nứa xông khói xà nu học chữ. Và dưới ánh lửa xà nu, Tnú đọc thư của cán bộ Quyết gửi dân làng. Khi Tnú trở về đơn vị chiến đấu, “cụ Mết và Dít đưa anh ra đến cửa rừng xà nu gần con nước lớn”...
+ Không những thế, cây xà nu còn gắn với những sự kiện trọng đại của dân làng Tây Nguyên.
Đấy là lúc giặc dùng giẻ tẩm nhựa xà nu để đốt tay Tnú. Lửa xà nu cháy trên mười đầu ngón tay Tnú. Và chính hành động dã man này đã khiến dân làng Xô Man vùng lên chiến đấu; kết quả là đống lửa xà nu lớn do thằng Dục đốt lên để dân làng trông rõ cảnh Tnú bị tra tấn dã man sau đó lại soi rõ xác mười tên lính giặc: “đông lửa xà nu lớn giữa nhà vẫn đỏ. Xác mười tên lính giặc ngổn ngang quanh đống lửa đỏ”...
Đấy là khi cả làng đô't đuôc xà nu theo cụ Mết vào rừng lấy vũ khí; rừng xà nu ào ào rung động trong đêm làng Xô Man đồng khởi...
+ Cây xà nu gắn với sinh hoạt hằng ngày, gắn với những sự kiện trọng đại của làng Xô Man đến mức thấm sâu vào nếp suy nghĩ và cảm xúc của họ. Sau ba năm “đi lực lượng”, Tnú về làng gặp cụ Mết - một già làng quắc thước “ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn”. Trong câu chuyện tâm tình với Tnú, cụ Mết tự hào về “rừng xà nu gần con nước lớn” của làng mình, cụ thấy “không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất 'ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên”. Cụ nói như thách thức với kẻ thù: “Đô' nó giết hết rừng xà nu này !”.
Như vậy, rõ ràng nhà văn đã miêu tả rất nhiều, rất kĩ về cây xà nu, rừng xà nu. Nhờ đó, trước hết phác họa trước mắt người đọc một làng Xô Man cụ thể và xác thực, góp phần quan trọng tạo nên không khí Tây Nguyên, chất Tây Nguyên độc đáo, làm nên thành công cho tác phẩm. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đây, thì cây xà nu mới chỉ là một hình ảnh, cho dù hình ảnh đó đậm nét. Để nó biến thành một biểu tượng, nhà văn phải khắc họa theo lô'i tượng trưng hóa. Nguyễn Trung Thành đã làm công việc khó khăn này một cách xuất sắc.
- Cây xà nu được mô tả trong sự hòa nhập, tương ứng với những phẩm chất cao đẹp của dân làng Xô Man. ở đây, tác giả đã sử dụng rộng rãi thủ pháp nhân hóa, tức là ông đã mô tả cây xà nu với biểu hiện giông như con người.
Thực ra, Nguyễn Trung Thành không phải là cây bút đầu tiên viết theo kiểu này. Điều đáng lưu ý là ông biến rừng xà nu, cây xà nu thành hệ thông hình ảnh được mô tả song song với hệ thông hình tượng nhân vật, tính cách nhân vật. Có thể nhận thấy điều đó qua toàn bộ tác phẩm và rõ nhất là hai đoạn văn tập trung nói về hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu ở đầu và cuối tác phẩm. Dân làng Xô Man yêu tự do có khác nào cây xà nu ham ánh sáng, ham khí trời? Dân làng Xô Man đã chịu bao đau thương mất mát, bao người đã bị giặc bắn chết, đọa đày cũng giông như rừng xà nu bị giặc tàn phá. Cây xà nu nô'i tiếp nhau vươn tới hiên ngang, bất khuất, bất chấp bom đạn quân thù cũng như các thế hệ dân làng Xô Man, người này ngã xuống, người khác vùng lên kiên cường chiến đấu đến cùng vì độc lập tự do. Rõ ràng, cây xà nu chính là biểu tượng của dân làng Xô Man, của đồng bào Tây Nguyên, của nhân dân Việt Nam anh hùng.
Việc dùng một sự vật để làm một biểu tượng nghệ thuật không phải là điều mới lạ. Trong văn chương, ta đã gặp không ít những biểu tượng như thế. Cây tre tượng trưng cho người Việt Nam cần cù, ngay thẳng (Tre Việt Nam, Nguyễn Duy), cây kơ-nia thể hiện tình yêu chung thủy, sắt son (Bóng cây kơ-nia, Ngọc Anh dịch),... Đáng nói là Nguyễn Trung Thành đã xây dựng hình tượng cây xà nu một cách hoàn hảo, không những tạo không khí Tây Nguyền hùng vĩ, hoang dã mà còn gửi gắm những suy tư sâu sắc và niềm tin mãnh liệt vào sức sổng bất diệt của con người và mảnh đất này.
Đó là những sáng tạo nghệ thuật bắt nguồn từ ấn tượng của Nguyễn Trung Thành về cây xà nu: “Ây là-một loại cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi..”.
Chất sử thi của Rừng xà nu
Truyện ngắn Rừng xà nu tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi của vãn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 2975, đặc biệt trong thời chôhg Mĩ cứu nước.
Đề tài của truyện Rừng xà nu nói đến vấn đề sinh tử hết sức hệ trọng không chỉ của cả cộng đồng làng Xô Man mà của cả dân tộc Việt Nam. Truyện viết về một thời điểm lịch sử trọng đại của cách mạng miền Nam (những năm đen tối sau hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 cho đến lúc Đồng khởi năm 1960), nhưng đây cũng là thời điểm tức nước vỡ bờ, nhân dân miền Nam chuẩn bị vũ trang chiến đấu.
Chủ đề của tác phẩm mang đậm tính sử thi: trước sự tàn ác của kẻ thù, nhân miền Nam chỉ có con đường duy nhất là cầm vũ khí vùng lên chiến đấu giải phóng quê hương.
Những nhân vật trong tác phẩm, tiêu biểu như Tnú, cụ Mết, thực chất là những con người kết tinh cao độ nhiều phẩm chất tiêu biểu của cả cộng đồng (gắn bó với dân làng, trung thành với cách mạng, căm thù giặc sầu sắc, kiên cường bất khuất, dũng cảm chiến đấu hi sinh,...). Lí tưởng sông của những nhân vật này luôn gắn liền với vận mệnh của cả cộng đồng. Hơn nữa, các nhân vật này cũng được xây dựng thể hiện sự tiếp nối của các thế hệ cách rhạng làng Xô Man. (Cụ Mết đại diện cho thế hệ cách mạng từ thời chông pháp, cụ truyền lại cho con cháu truyền thông oanh liệt của dân làng; Tnú tiêu biểu cho ý chí và sức mạnh của cộng đồng; Dít, Heng là thế hệ non trẻ nối tiếp cha anh,...). Vì thế, tất cả số phận của mọi nhân vật đều thống nhất với nhau, thông nhất với số phận của cả cộng đồng. Điều đó thể hiện tính sử thi của tác phẩm.
Ngoài ra, chất sử thi còn bộ lộ qua cách trần thuật. Trong Rừng xà nu, câu chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man đan xen vào câu chuyện về cuộc đời và con đường của nhân vật Tnú; trong đó, chuyện về cuộc đời và con đường của Tnú là cốt lõi.
Câu chuyện ấy mới diễn ra, nhưng nó đã được kể như một câu chuyện lịch sử bằng ngôn ngữ của sử thi, trong không khí trang trọng (bên 'bếp lửa), với thái độ trang nghiêm của cả người kể (cụ Mết'- già làng) và người nghe (dân làng Xô Man). Người kể muôn truyền cho con cháu, cho dân làng những trang lịch sử đau thương và oanh liệt của cả một cộng đồng, thông qua cuộc đời và con đường của một thành viên ưu tú (nhân vật Tnú).
“Đêm nay tau kể chuyện nó cho cả làng nghe, để mừng nó về thăm làng. Người Stiá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe...”.
Giọng kể trang nghiêm, trầm hùng (câu chuyện được kể bằng giọng kể của một già làng bên đống lửa bập bùng giữa nhà ưng, bển ngoài lấm tấm mưa đèm, rì rào như gió nhẹ) khiến cho câu chuyện mang màu sắc thiêng liêng như một trang sử của cộng đồng.
ơ tác phẩm này, Nguyễn Trung đã xây dựng được nhiều hình ảnh chói lọi, kì vĩ như hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu, hình ảnh hai bàn tay bị đốt của Tnú.
Giọng văn trong truyện là giọng vãn trang trọng, trang nghiêm, hùng tráng (chẳng hạn những đoạn tường thuật lời cụ Mết nói với dân làng, những đoạn đặc tả rừng xà nu hiên ngang vươn lên bất chấp bom đạn của kẻ thù). Đấy là những hình ảnh của sử thi, giọng văn của sử thi.
c. Tổng kết
Truyện ngắn “Rừng xà nu” đã ngợi ca sự kiên cường, một lòng vì cách mạng của đồng bào Tây Nguyễn trong cuậc kháng chiến chống Mĩ, đồng thời khẳng định chân lí: phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.
Đây là một truyện ngắn giàu chất sử thi từ chủ đề, cốt truyện, bút pháp xây dựng nhân vật cho đến giọng điệu và ngôn ngữ tác phẩm.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề'. Có ý kiến cho rằng truyện ngắn Rừng xà nu thấm đẫm chát Tây Nguyên. Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về nhận xét ấy ?
GỢI Ý
Chất Tây Nguyên đã được thể hiện đậm nét trong truyện ngắn Rừng xà nu, góp phần không nhỏ tạo nền sức hấp dẫn của tác phẩm. Chất Tây Nguyên đó đã được tạo nên bởi nhiều yếu tô" thâm vào toàn bộ tác phẩm. Tuy nhiên, có thể nêu ra một sô' yếu tô" chính sau:
Hỉnh tượng cây xà nu, rừng xà nu “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho dân làng”\ không những xuất hiện ở phần đầu và phần kết thúc tác phẩm mà còn xuất hiện rất nhiều trong toàn bộ câu chuyện, gắn với sinh hoạt thường nhật, cũng như những sự kiện trọng đại của dân làng Xô Man. Cây xà nu là cây đặc trưng của Tây Nguyên. Sự hiện diện ở mức độ đậm đặc của cây xà nu, rừng xà nu đã tạo được không khí Tây Nguyên vừa hùng vĩ vừa hoang dã rất cần thiết cho tác phẩm.
Hình tượng những nhân vật trong tác phẩm mang đậm chất Tây Nguyên: từ ngoại hình (cụ Mết mắt xếch ngược, râu dài tới ngưc, ở trần) tới tên gọi (anh Pro, Brôi, chị Biom, bà già Prôi,... dân tộc Strá, tới ngôn ngữ cách thức đối thoại (đoạn Tnú đôi thoại với dân làng ở cuối truyện về việc bóp chết thằng Dục),...
Câu chuyện về Tnú được cụ Mết - già làng kể trong một đêm ngoài trời mưa lấm tấm, dân làng ngồi xung quanh bếp lửa chăm chú lắng nghe. Đây chính là cách kể các trường ca Tây nguyên, gợi không khí Tây Nguyên.
Một loạt các chi tiết phản ánh những nét sinh hoạt chỉ có ở miền núi, thậm chí chỉ có ở Tây Nguyên-, tiếng chày giã gạo dồn dập; máng nước lách tách trong đêm khuya; được tin Tnú về có người mừng quá không kịp bước xuống thang mà “nhảy phỗc một cái từ trên nhà sàn xuống đất”, còn những cụ già “lụm cụm bò xuống thang, từng bậc, từng bậc”; cụ Mết chia cho mỗi người mấy hạt muôi, “họ ăn sô'ng từng hạt, ngậm rất lâu trong miệng để nghe chất mặn đậm đà tan dần”; các cô gái lấy nước ở vòi nước đầu làng thẹn thùng vác ông bương đứng tránh ra một bên cho .Tnú rửa mặt; cách chị bí thư Dít nghiêm nghị kiểm tra tờ giấy phép của Tnú; “tiếng chiêng nổi lên”,...
Tất cả những yếu tố nêu trên đã khiến cho Rừng xà nu đậm đà không khí Tây Nguyên hùng vĩ và hoang dã, điều hết sức quan trọng làm nên thành công lớn của tác phẩm.
Sở dĩ Rừng xà nu có được không khí Tây Nguyên, chất Tây Nguyên trước hết vì Nguyễn Trung Thành đã sông nhiều năm ở tây Nguyên, nhất là ông đã gắn bó máu thịt với Tây Nguyên, có hiểu biết tường tận về con người và cảnh vật ở vùng đất này.
Đề: Hãy trình bày một số nét nổi bật trong giá trị nghệ thuật của truyện Rừng xà nu.
GỢI Ý
Tuy là một truyện ngắn với sô' trang không nhiều, nhưng “Rừng xà nu” có sức khái quát cao, có sức chứa của một cuốn tiểu thuyết bi tràng về Tây Nguyên bất khuất. Đây là kết quả đúc kết, chắt lọc của một cây bút từng trải, khi tài năng đã chín.
Nhà văn không miêu tả 'dàn trải mà tập trung vào những điểm tiêu biểu nhất. Câu chuyện được kể gọn trong một đêm. Cụ Mết kể chuyện để truyền cho dân làng một bài học lịch sử đẫm máu kết tinh nhiều ý nghĩa. Truyện dồn chủ yếu vào nhân vật Tnú. Ớ nhân vật này, dường như tác giả chủ yếu tập trung vào cái đêm vợ con anh bị giặc giết hại, bản thân anh bị chúng tra tấn dã man. Và trong cái đêm khủng khiếp ấy, nhà văn miêu tả đậm nét nhất là là mười ngón tay Tnú bị giặc quân giẻ tẩm dầu xà nu đốt chấy đùng đùng “như mười ngọn đuốc”. Mười ngọn đuốc da thịt đó đã làm mồi châm lửa để dân làng Xô Man bột phát nổi dậy, tiêu diệt cả tiểu đội giặc, mở ra một thời kì đấu tranh mới... Ớ đây, mỗi chi tiết đều góp phần đắc lực tô đậm chủ đề tác phẩm.
Ngôn ngữ của nhân vật cũng được chọn lọc, đặc biệt là nhiều câu nói của cụ Mết như đúc kết chân lí, như hiệu lệnh chiêh đấu: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”; “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên ! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm tràm cây chông. Đốt lửa lên !”.
Một thành công nữa về nghệ thuật ở truyện ngắn này là nhà văn đã xây dựng được một số hình ảnh biểu tượng có sức khái quát lớn. Chẳng hạn như hình ảnh cây xà nu, hay hình ảnh mười đầu ngón tay củ Tnú bị địch đốt cháy thành mười ngọn đuốc,...
Đề: Phân tích tác phẩm “Rừng xà nu” của Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành) để làm rõ ý nghĩa môi quan hệ giữa cá nhân với cộng đổng và con đường cách mạng của các dân tộc Tây Nguyên.
DÀN Ý
Đặt vấn đề
Nhà văn Nguyên Ngọc: thế hệ trưởng thành trong kháng chiến chông Pháp, tâm hồn gắn bó với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.
Cảm hứng lãng mạn anh hùng ca xuyên suốt trong sáng tác của ông.
Rừng xà nu gắn liền bốì cảnh những ngày đầu trực tiếp đương đầu với đế quốc Mĩ - tập trung phản ánh tinh thần anh dũng của nhân dân trong cuộc chiến đấu cao cả.
Giải quyết vấn đề
Tổng
Mở đầu và kết thúc là hình ảnh rừng xà nu là dụng ý nghệ thuật của nhà văn.
Câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú là bài học sâu sắc và chân lí cách mạng gắn liền hiện thực chiến đấu.
Cảm hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong chiến đấu.
Phân
а.	Hình tượng rừng xà nu
Gắn liền không khí căng thẳng quyết liệt của hiện thực - hình dung sức mạnh hủy diệt của kẻ thù.
Đặc tả về phẩm chất của cây xà nu: vẻ đẹp cao quý và ấn tượng về một sức sống mạnh mẽ kiên cường gắn với' mảnh đất Tây Nguyên cũng như con người các dân tộc ,Tây Nguyên.
Cả một khu rừng xà nu tiếp nối đến tận chân trời tạo nên ý nghĩa tượng trưng về sức mạnh và ý chí kiên cường của các dân tộc Tây Nguyên hướng về Đảng, về cách mạng.
б.	Hình tượng Tnú
Tnú có phẩm chất gan dạ từ nhỏ, quyết tâm làm cách mạng. Ý thức rất rõ về truyền thông khi nhắc lời cụ Mết: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn!”.
Được tôi luyện qua thử thách, trở thành người chiến sĩ kiên trung. Tình yêu, hạnh phúc hình thành trên nền hiện thực khóc liệt của cuộc chiến đấu.
Có tình cảm gắn bó, niềm tự hào sâu sắc với cộng đồng, kí ức vẹn nguyên những yêu thương và căm hờn.
Phẩm chất của người anh hùng: bụng sạch như nước suối làng ta, là người anh hùng huyền thoại bằng xương bằng thịt, là sự tiếp nối tốt đẹp truyền thống cộng đồng.
Câu chuyện bi tráng-.
Không khí ngột ngạt trong sự khủng bô" tàn bạo của kẻ thù. Ánh mắt rực lửa căm hờn của Tnú trước hành động vô nhân tính.
Bộ mặt kẻ thù hiện lên nham hiểm, thâm độc. Mẹ con Mai là nạn nhân và hành động nhảy xổ ra của Tnú là hợp lí, thể hiện tình yêu thương sâu sắc của anh. Tnú hoàn toàn đơn độc và tay không nên không bảo vệ được vợ con và cả chính mình, đó là bài học đau xót.
Bản thân Tnú bị kẻ thù đốt mười đầu ngón tay - hòng hủy diệt ý chí vùng lên - nỗi đau dồn nén thành tiếng thét. Ngọn lửa hủy diệt thành ngọn lửa trả hờn. Kẻ thù phải đền tội bởi chính tội ác dã man của chúng.
Sự tiếp nối các thế hệ -.
Cụ Mết: là biểu tượng truyền thông, là nhân chứng và người lưu giữ niềm tự hào của cộng đồng làng Xô Man.
Tnú: cây xà nu trưởng thành và là sức sống của làng Xô Man vùng lên.
Dít: vững vàng, kiên định, là biểu tượng của làng Xô Man chiến đấu, là sự nối tiếp truyền thống anh hùng, khẳng định sức mạnh chiến thắng kẻ thù.
c. Kết thúc vấn đề:
Tác phẩm là bản anh hùng ca về mảnh đất và con người Tây Nguyên trong kháng chiến chông Mĩ, đồng thời để lại ấn tượng về vẻ đẹp, sức sông của những con người anh dũng, trung thành với cách mạng.
Cảm hứng lãng mạn anh hùng ca làm nên diện mạo đặc sắc của truyện ngắn này.