Soạn bài Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân, 1960)

  • Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân, 1960) trang 1
  • Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân, 1960) trang 2
  • Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân, 1960) trang 3
  • Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân, 1960) trang 4
  • Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân, 1960) trang 5
  • Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân, 1960) trang 6
  • Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân, 1960) trang 7
  • Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân, 1960) trang 8
  • Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân, 1960) trang 9
  • Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân, 1960) trang 10
  • Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân, 1960) trang 11
  • Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân, 1960) trang 12
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
Nguyễn Tuân
KIẾN THỨC Cơ BẢN
A. Giới thiệu
Nguyễn Tuân (1910 - 1987) sinh ra trong một gia đình nhà nho, quê ở Hà Nội. Khi còn nhỏ Nguyễn Tuân đã theo gia đình sông ở nhiều tỉnh miền Trung. Ông học thành chung ở Nam Định, sau đó về Hà Nội viết vãn và làm báo. Nguyễn Tuần sáng tác khá sớm, nhưng chỉ thực sự nổi tiếng từ khoảng năm 1940.
Cũng như nhiều nghệ sĩ khác, Nguyễn Tuân đến với cách mạng và tích cực dùng ngòi bút phục vụ hai cuộc kháng chiến của dân tộc. Ồng đã nhiều năm giữ trọng trách trong Hội Vãn nghệ và Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam.
Tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân trước Cách mạng: tập kí Một chuyến đi, tập truyện ngắn Vang bóng một thời và tập tùy bút Chiếc lư đồng mắt cua,..:, sau Cách mạng là các tập tùy bút Tình chiến dịch, Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi,...
Với phong cách nghệ thuật độc đáo, tài hoa và uyên bác, trình độ sử dụng tiếng Việt điêu luyện, nhất là sở trường về thể loại tùy bút, Nguyễn Tuân có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
Tập tùy bút Sông Đà (1960) là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám. Đó là kết quả từ chuyên đi thực tế Tây Bắc của nhà văn năm 1958. Cả 15 bài tùy bút trong tác phẩm này đều tập trung ca ngợi thiên 
nhiên và con người Tây Bắc bằng những hình tượng giàu sức hấp dẫn, những trang văn tài họa, uyên bác, đậm đà cảm hứng lãng mạn trong sáng.
Người lái đò Sông Đà là bài tùy bút xuất sắc nhất trong tập Sông Đà. Áng văn ca ngợi con sông Đà và người lái đò sông Đà, thể hiện tình yêu thiên nhiên đất nước và niềm tin yẽu dạt dào vào cuộc sống mới.
B. Đọc - hiểu văn bản
Một bài ca về thiên nhiên Tây Bắc - Hình tượng con sông Đà
Trong tùy bút Sông Đà, Nguyễn Tuân đã khắc họa được nhiều bức tranh thiên nhiên sinh động, hấp dẫn của vùng núi rừng vừa hùng vĩ, hiểm trở, vừa tuyệt vời thơ mộng ở phía tây bắc của Tổ quốc. Dưới ngòi bút của nhà văn, miền đất này hiện lên thật tươi đẹp với những núi xa, núi gần miên man như trùng vi thạch trận, với những thung lũng vàng một màu lúa chín, với bao nhiêu thứ hoa tỏa hương đua sắc,... Nhưng tiêu biểu nhất, được nhà vãn tập trung bút lực mô tả công phu nhất phải kể đến hình ảnh con sông Đà hùng vĩ, nên thơ trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà.
Về mặt địa lí, sông Đà bắt nguồn từ Trung Quốc, dài gần 900 cây số lượn rồng rắn qua một vùng núi rừng bao la có độ dốc rất lớn. Bởi vậy, lưu tốc của dòng sông Đà lớn hơn rất nhiều so với những dòng sông khác trên đất nước ta. Dĩ nhiên, với tư cách nhà văn, tuy có khảo cứu công phu để cung cấp cho người đọc một vôh tri thức cụ thể, phong phú về sông Đà, nhưng chủ yếu Nguyễn Tuân vẫn thiên về bình diện khai thác khía cạnh văn hóa, thẩm mĩ, bày tỏ tình cảm, xúc cảm của mình khi viết về dòng sông nổi tiếng này.
Sông Đà được nhà vãn xây dựng thành một “nhân vật” có mặt suốt từ đầu đến cuối thiên tùy bút, góp phần không nhỏ tạo nên giá trị độc đáo của tác phẩm này. Dưới ngòi bút tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân, sông Đà không còn là một dòng sông vô tri, vô giác, như trăm ngàn con sông ta đã từng nhìn thấy, mà là một “nhân vật” có cá tính, có tâm trạng, có hoạt động thật phong phú và phức tạp. Tác giả đã có nhận xét khái quát: đây chính là con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Hai đặc điểm hung bạo và trữ tình này sẽ được nhà văn triển khai một cách tỉ mỉ và tài nghệ trong suốt cả bài tùy bút.
a. Sông Đà - con sông Tây Bắc “hung bạo”
Miêu tả sông Đà, trước hết Nguyễn Tuân muôh tô đậm trong mỗi người đọc tính cách hung bạo của nó.
Mở đầu thiên tùy bút Người lái đò Sông Đà, bằng những tư liệu phong phú và chính xác, nhà văn liệt kê một loạt con thác, tính từ đất Vạn Yên trở về Thác Bờ thuộc địa phận Hòa Bình. Cái đáng sợ của sông Đà đâu phải chỉ ở những con thác, mà còn ở quang cảnh hùng vĩ với vẻ huyền bí, hoang sơ của dòng sông chảy giữa điệp trùng rừng núi Tây Bắc. Như một nhà quay phim lão luyện, vừa cho người xem thấy bao quát khung cảnh sông Đà, thỉnh thoảng Nguyễn Tuân lại dừng lại “côhg hiến” cho khán giả những pha “cận cảnh” thật tiêu biểu về sự hung dữ của con sông này.
Đấy là những cảnh thật hiếm thấy như cảnh “đá bờ sông dựng vách thành”, vì thế cả ngày mặt sông không có ánh nắng, chỉ khi nào đến giữa trưa, 98 
mặt trời rọi đúng đỉnh đầu, chỗ ấy mới có ánh nắng. Rõ ràng, cách so sánh nói trên đã tạo được một ấn tượng khá đậm nét về vách đá dựng đứng với độ cao hun hút khôn cùng. Chưa hết, có chỗ “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu”. Vì thế, dòng chảy của con sông bị thu lại rất hẹp. Để độc giả có thể hình dung rõ nét sự nhỏ hẹp của dòng chảy, Nguyễn Tuân đã sử dụng liên tiếp hai chi tiết: hẹp đến mức “đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách”, hẹp đến mức “có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. An tượng về sự cao và thẳng của vách đá bờ sông và ấn tượng dòng chảy nhỏ hẹp càng được tô đậm thêm khi nhà văn tìm được một chi tiết tiêu biểu và lôi liên tưởng bất ngờ, khiến cho thiên nhiên hoang sơ gần với đời sông hiện đại của con người: “Ngồi trong khoang đò qua quãng vắng ây, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào từ cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Như vậy, để miêu tả cảnh tượng hùng vĩ có phần huyền bí của đòng sông, nhà văn chẳng những sử dụng thị giác, mà ông còn kết hợp sử dụng các giác quan khác (như xúc giác) với những so sánh thật mới mẻ và táo bạo. Vách thành dựng đứng gợi lên sự hiểm trở, hũng vĩ; lòng sông hẹp lại gián tiếp gợi được sức chảy ghê gớm, dữ dằn của thác lũ.
Tính chất hung bạo còn thể hiện qua cái dữ dằn của ghềnh sông với sự hợp sức của gió, của sóng và của đá. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, dường như chúng phôi hợp với nhau một cách chặt chẽ để tăng thêm sức mạnh uy hiếp, đe dọa con người: “[...] quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy”. Đoạn văn này có thể cung cấp đủ những hình ảnh cần thiết cho một họa sĩ nào ưa vẽ những cảnh thác lũ rùng rợn, mãnh liệt. Ở đây, một phần câu vãn như bị chặt đứt ra thành nhiều khúc ngắn, gọn, diễn đạt theo lối điệp từ, điệp cấu trúc và tăng tiến, tạo nhịp điệu khẩn trương, dồn dập, gấp gáp giông như sự chuyển vận của gió to và sóng lớn.
Hung bạo hơn nữa là những cái hút nước khủng khiếp: “Trên sông bỗng có những cái hút nước giông như cái giếng bê tông thả xuông sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Vì nước bị hút quá mạnh nên phát ra những âm thanh mà tác giả nhân cách hóa là nước “thở và kêu như cửa công cái bị sặc” do nước bên trong và ngoài công chênh nhau quá nhiều phát ra tiếng kêu “ặc ặc”ghế sợ. Để tô đậm thêm sự nguy hiểm của cái hút nước, nhà văn đã phôi hợp giữa tả và kể. Ớ đây, yếu tố tự sự góp phần quan trọng kích thích trí tưởng tượng của người đọc. Nếu câu văn trên thiên về tả thì hai câu dưới đây thiên về kể: “Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuôi ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Dường như nhà văn rất có ý thức miêu tả đan xen với trần thuật để tô đậm ở người đọc ấn tượng về thác nước Đà giang dữ dội. Sông Đà chảy qua một địa hình núi đá trập trùng, hiểm trở.
Qua hàng triệu năm, núi đá bị bào mòn, có nơi tạo nên nhiều kiểu dòng chảy: có dòng quanh co giữa những chân núi đá dựng đứng, có dòng chảy ngầm qua lòng núi. Đến một chỗ nào đó chúng hòa lại với nhau thành một dòng. Chính những dòng chảy ngầm này đã tạo nên* những hút nước. Dòng chảy càng rộng và độ cao thấp chênh lệch càng lớn thì hút nước càng mạnh. Nguyễn Tuân đã mô tả con sông Đà như nó tồn tại ở ngoài đời. Nhận xét đó càng được củng cô' khi chúng ta biết rằng, những điểm nhà văn dừng lại tả kĩ lưỡng phần lớn đều có địa chỉ xác thực. Phải chăng tùy bút này của Nguyễn Tuân luôn có chất kí là vì thế ?
- Sông Đà còn hung bạo ở những thác nước. Nhiều thác nước như bày sẵn thế trận, sẵn sàng chặn đánh, tiêu diệt người lái đò, lái mảng; đặc biệt đô'i với những ai xuôi dòng. Nguyễn Tuân đã khiến cho sự dữ dội của thác nước hiện lên thành hình dáng cụ thể và gầm thét với âm thanh phong phú, tác động mạnh đến cả thị giác lẫn thính giác của người đọc. Ớ những nơi này, sông Đà được mô tả như có cả một bầy thủy quái vừa hung hăng, bạo ngược, vừa nham hiểm, xảo quyệt. Lúc thì thác nước khiêu khích, chế nhạo; khi thì hò la, gầm thét, “như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Thác nước càng được nhân thêm sức mạnh, sức công phá, nhân thêm mô'i nguy hiểm đô'i với nhà đò vì sự góp mặt của hàng ngàn tảng đá to, nhỏ. Mỗi hòn đá được nhà văn khắc họa như một quái vật từ ngàn năm vẫn kiên trì mai phục ở nơi này để bày thạch trận trong lòng sông. Mỗi lần thấy một con thuyền nào nhô vào đường ngoặt sóng là chúng lập tức nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Quả là Nguyễn Tuân đã dựng dậy và thổi sự sông vào cho những hòn đá vô tri vô giác, khiến người đọc hình dung chúng cũng táo tợn, hung bạo như một lũ giặc điên cuồng. Còn nước thì reo hò làm thanh viện cho đá đến mức sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá... ít thấy ở đâu phép nhân hóa được sử dụng mạnh tay như ở những câu văn vừa nêu; cũng thật khó tìm thấy ở đâu có kiểu so sánh độc đáo (tiếng thác như tiếng một ngàn con trâu mộng) như vậy. Hơn nữa, cũng hiếm có nhà văn Việt Nam nào dám lấy lửa tả nước như Nguyễn Tuân. Tất cả những thủ pháp nghệ thuật đó đã mang lại hiệu quả nghệ thuật đáng kể: dưới ngòi bút của người nghệ sĩ ngôn từ, vẻ đẹp man dại, sức mạnh huyền bí của sông Đà đã hiện ra ở nhiều góc độ khác nhau. Đấy chính là tiềm năng to lớn của Đà giang khi nó được con người chinh phục'' Đấy là vàng trắng quý báu của đất nước chúng ta. Chính ‘vì vậy, Nguyễn Tuân nghĩ tới hình ảnh của những “tuốc-bìn thủy điện”. Điều đó cũng có nghĩa là nhà văn nghĩ tới vai trò, vị trí của sông Đà trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
Quả thật, ở ngoài đời, sông Đà vốn hung bạo, nhưng sự hung bạo này được nhân lên gấp bội bởi tài nghệ sử dụng “đội quân Việt ngữ” điêu luyện, công phu của Nguyễn Tuân. Miêu tả cái hung bạo của dòng sông thực ra là nhà văn muôn khắc họa sức mạnh kì diệu và vẻ đẹp hùng vĩ, hoang sa của sông Đà, nói rộng ra là của thiên nhiên Tây Bắc, mảnh đất mà ông yêu mến thiết tha.
Sông Đà - con sông Tây Bắc “trữ tình”
Sông Đà đâu chỉ hung bạo, đây còn là một dòng sông tuyệt vời thơ mộng. Trên thực tế có đoạn sông Đà đầy ghềnh thác hung hãn, có đoạn thật hiền hòa, nước chảy êm đềm. Đặc biệt, từ mạn Thác Bờ về xuôi, sông Đà chĩ còn lại cái vẻ dịu dàng, như bất kì một dòng sông nào ở vùng đồng bằng. Bởi vậy, bên cạnh tính hung bạo, Nguyễn Tuân rất chú trọng khắc họa tính trữ tình của dòng sông này. Vốn văn hóa, vòn từ vựng giàu có, trí tưởng tượng bay bổng của nhà văn thả sức tung hoành, tạo nên những đoạn văn mượt mà như những bài thơ.
Để khắc họa tính trữ tình, dịu dàng của dòng sông, trước hết, Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà một cách bao quát bằng một câu văn đầy hình ảnh và nhịp điệu. Có lẽ từ trên cao, ông nhìn xuống và thấy dòng sông giông như mái tóc của người thiếu nữ kiều diễm: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Nếu cố gắng đọc câu văn này theo đúng chỗ ngắt hơi, nghỉ giọng, ta sẽ có cảm giác đây là một đoạn nhạc phần đầu cao và hơi nhanh, nhưng càng về cuối càng xuống thấp, kéo dài như bất tận. Phải chăng đấy cũng có thể coi là một bức tranh tổng thể về sông Đà, lúc đầu chảy ngoằn ngoèo, dích dắc giữa điệp trùng núi đá và đại ngàn Tây Bắc; nhưng khi về dần đến miền trung du, Đà giang chảy êm ả thẳng dòng ? Đây phải chăng là một ví dụ để có thể nói trong văn Nguyễn Tuân có cả thơ, cả họa và cả nhạc ?
Tác giả ngắm nhìn sông Đà ở nhiều thời gian, nhiều không gian khác nhau. Với tình cảm trìu mến thiết tha, nhà văn đã phát hiện được một cách tinh tế màu sắc của dòng sông biến đổi theo từng mùa. Xuân về, Đà giang “xanh ngọc bích”, tức là màu xanh rất đẹp: vừa trong xanh lại vừa óng ánh'. chứ không xanh như “màu xanh canh hến” - màu xanh đục của sông Gâm, sông Lô (tuy cả ba con sông cùng chảy qua vùng phía bắc của Tổ quốc). Khi thu sang, nước sông Đà chuyển thành màu “lừ lừ chín đỏ”... Như vậy, vào mỗi mùa, dòng sông đều có một vẻ đẹp riêng. Chính vì thế, Nguyễn Tuân bực bội khi bọn thực dân cướp nước lại gọi một cách thô bạo sông Đà là dòng sông Đen - sông có màu đen (rivière Noire).
Tác giả dành những đoạn hay nhất tả cảnh vật ven sông Đà. Để tôn thêm tính trữ tình của dòng sông, nhà văn sử dụng nhiều hình ảnh trong sáng, gợi cảm và đầy chất thơ. Qua mỗi câu văn, ta đều cảm nhận được tấm lòng trìu mến của ông đô'i với tạo vật. Nhịp điệu câu văn lúc thì hô'i hả, mau lẹ do cách ngắt câu và diễn đạt theo lôi điệp (“Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trẻn Sông Đà.”} để diễn tả niềm sung sướng đang trào dâng trong lòng tác giả; lúc thì chậm rãi, như tãi ra để diễn tả cái vắng lặng rất nên thơ của con sông này: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng lờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ tranh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngôn búp cỏ tranh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
Đoạn văn trên như vừa giúp người đọc nhìn tường tận phong cảnh yên tĩnh ven sông Đà, vừa gợi cho ta một niềm xúc cảm, một sự liên tưởng phong phú nhờ sự so sánh độc đáo của tác giả. Hình ảnh một bờ tiền sử, một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa có sức khơi gợi sâu xa, khắc hoạ được vẻ đẹp hoang sơ, tồn tại như vĩnh hằng của thiên nhiên. Với cách liên tưởng và ví von ấy, dường như sông Đà còn có vẻ đẹp của một con sông bền bỉ chảy qua tháng năm lịch sử, mang dấu tích ván hóa ngàn xưa của dân tộc. Nói văn Nguyễn Tuân cổ kính, trang nghiêm mà hiện đại phải chăng có phần vì thế ?
-• Với một tình yêu thiên nhiên Tây Bắc tha thiết, tác giả nhìn sông Đà như một cô' nhân và ghi nhớ mãi ân tượng: ở rừng lâu ngày, một lần bám gót anh liên lạc bất chợt bắt gặp dòng sông Đà lóa nắng, ông nhớ tới một câu thơ đầy gợi cảm của Lí Bạch nói về buổi tiễn Mạnh Hạo Nhiên ở bên sông: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” (Giữa tháng ba mùa hoa khói xuôi (thuyền) về Dương Châu).
Vậy, vì sao nhà văn lại miêu tả con sông Đà với hai đặc điểm đốì lập gay gắt ?
+ Trước hết, miêu tả sông Đà như thế là phản ánh đúng dòng sông này như ở ngoài đời. Ai đã từng có may mắn dọc trên sông Đà piột lần dù vào mùa khô nước cạn, trên một con thuyền đuôi én ngược dòng hay trên một bè nứa về xuôi... thì đều có thể nhận xét: có những chỗ sông Đà cực kì dữ dằn nguy hiểm nhưng cũng có không ít chỗ hết sức dịu dàng, thơ mộng {Người lái đò Sông Đà là một tùy bút, nhưng có chất kí, tức là có cảnh thật, người thật).
+ Thứ hai, tác giả biến dòng sông vô tri, vô giác trở thành một nhân vật có tâm trạng, có cá tính, lúc thì hiền hòa khi thì giận dữ, giống như con người; vì thế lôi cuôn, hấp dẫn độc giả.
+ Thứ ba, việc miêu tả Đà giang với hai đặc điểm như vậy còn có tác dụng làm phông nền để khắc họa hình ảnh ông lái đò - một nghệ sĩ vừa dũng cảm vừa tài trí trong nghề leo ghềnh, vượt thác.
* Tóm lại, bằng một tình yêu thiên nhiên đất nước thiết tha, bằng tài năng của một nghệ sĩ ngôn từ đích thực, đến Nguyễn Tuân, có lẽ lần đầu tiên con sông Đà của Tổ quốc đã bước vào văn học với vẻ dữ dội, hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng chứa chan thơ mộng, trữ tình của nó. Thì ra, với tác giả Người lái đò Sông Đà, thiên nhiên cũng chính là một sản phẩm nghệ thuật vô giá, thiên nhiên luôn làm cho con người hấp dẫn, mê say.
Như vậy, tùy bút này trước hết là một bài ca ngợi ca thiên nhiên Tây Bác.
Một bài ca về con người Tây Bắc - Hình tượng người lái đò
Trên cái nền con sông Đà hung bạo và trữ tình, Nguyễn Tuân khắc họa đậm nét hình tượng người lái đò trí dũng, tài hoa với một tình cảm yêu quý và khâm phục.
- Ông lái đò sinh ra bên bờ sông Đà. Gon sông này cung cấp nguồn sông cho ông ngay từ khi còn để chỏm. Ông có ngoại hình và những tố chất khá đặc biệt-, thân hình “cao to”, “gọn quánh như chất sừng chất mun”; tay “lêu nghêu”, 
chân “khuỳnh khuỳnh”; giọng “ào ào nhự tiếng nước trước mặt ghềnh sông”; nhỡn giới “vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào trong sương mù”... Mô tả những điểm này, không những Ngyễn Tuân đã đưa đến cho người đọc một bức chân dung phác thảo thể hiện được thần thái người lái đò, mà điều quan trọng làhơn nhà văn muôn nhấn mạnh đâỳ là con người đã gắn bó với nghề sông nước từ nhiều năm. Vì thế, những đặc điểm của công việc đã hiển hiện rất rõ qua dáng hình ông.
Sau hàng chục năm xuôi ngược, ông lái hiểu biết tường tận về dòng sông hay trái tính trái nết này. Tuy đã “nghỉ đò”, ông vẫn “nhớ tỉ mĩ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, vẫn “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, “thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở”, vẫn biết rõ từng cửa tử, cửa sinh trên những “thạch trận” sông Đà. Nói như Nguyễn Tuân, ông lái đò đã “nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước Sông Đà”. Và chính nhờ nắm được cái quy luật tất yếu ấy mà ông luôn tự do và tự tin.
Ông lái đò còn là một người có tài nghệ đặc biệt trong nghề leo ghềnh vượt thác. Để làm nổi bật đặc điểm quan trọng này, Nguyễn Tuân đã tạo ra một cuộc vượt thác có một không hai, bằng vôn từ vựng giàu có và kiến thức uyên bác về nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực quân sự và võ thuật. Ở đó, ông lái đò xuất hiện như một viên tướng tả xung hữu đột trong một trận đồ bát quái, nhiều cửa nhiều vòng; mỗi vòng đều có những viên tướng đá dữ dằn, nham hiểm đón đánh. Người lái đò chỉ cần có một sơ suất nhỏ thì trong nháy mắt đã có thể phải trả giá bằng chính tính mạng của mình.
+ Trước mặt những người lái đò là một trận địa nguy hiểm những thác nước và đá ngầm. Để tăng thêm thanh thế áp đảo con thuyền, quân thác đá rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn. Chúng hung hăng, dữ tợn bày thạch trận trên sông: khi thì chúng ẩn nấp mai phục, khi thì lừa miếng đánh du kích, quay vòng tập hậu. Đá to, đá nhỏ nham hiểm phô'i hợp với nước hung dữ đòi ăn chết cái thuyền. Mặt nước hò la, xông tới định bẻ gãy cán chèo - vũ khí của nhà đò. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Điều đó chứng tỏ ông lái tỉnh táo, bình tĩnh biết chừng nào !
+ Nén chịu cái đau thể xác do cuộc vật lộn với sóng thác gây nên, ông điều khiển con thuyền lần lượt vượt qua trùng vi thạch trận, chiến thắng thác dữ bằng những động tác táo bạo mà vô cùng chuẩn xác: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bôn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”, “[...] đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Bằng sức tưởng tượng bay bổng, bằng vốh từ vựng phong phú, chọn lọc, đa dạng,... Nguyễn Tuân đã sáng tạo được một đoạn văn đặc sắc, tràn đầy không khí trận mạc, miêu tả sinh động cuộc chiến đấu của người lái đò với thác, với đá hung bạo và xảo quyệt. Đoạn vãn của Nguyễn Tuân gợi cho người đọc liên tưởng đến cuộc chiến đấu dữ dội giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh từ thuở xa xưa trong truyền thuyết.
Nguyễn Tuân chú ý tô đậm nét tài hoa, nghệ sĩ ở ông lái. Cũng như nhiều nhân vật chính diện khác, ông lái đò được nhà văn miêu tả như là một nghệ sĩ - tức là rất thuần thục, điêu luyện - trong nghề leo ghềnh vượt thác. Theo Nguyễn Tuân, nét tài hoa, nghệ sĩ của con người không chỉ thể hiện ở hoạt động sáng tạo nghệ thuật mà còn thể hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Đôd với bất kì công việc gì, khi đạt tới trình độ khéo léo điêu luyện, con người sẽ bộc lộ nét tài hoa nghệ sĩ rất đáng trân trọng.
Ông lái đò xứng đáng được coi là một nghệ sĩ còn vì ông có tâm hồn phong phú, cao đẹp. Khi vượt qua thác nước, mọi việc vất vả, nguy hiểm “xèo xèo tan trong trí nhớ” những người lái đò. Họ coi việc đốì mặt với sóng nước hung bạo, với cái chết là chuyện thường nhật, thường tình, không có gì đáng nói. Khi đốt lửa trong hang đá nướng ống cờm lam, họ chỉ bàn về cá dầm xanh, cá anh vũ,... Ông lái đò cũng như đồng nghiệp của mình gắn bó thiết tha với làng bản quê hương. Họ thường treo bu gà trông có bộ lông đẹp và giọng gáy hay ở đuôi thuyền để “đi đường xa, qua bờ này bến khác, có tiếng gà gáy đem theo, nó đỡ nhớ nương ruộng bản mường mình...”. Ở đây, Nguyễn Tuân viết về những nhà đò nói chung, nhưng ta có thể hiểu đấy cũng chính là nói về ông lái đò.
Với Nguyễn Tuân, chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ ở nơi giáp mặt với quân thù, mà có thể xuất hiện hằng ngày trong cuộc sống lao động của bao con người bình thường giản dị, không tên tuổi, ở ngay cả những nơi xa xôi, hẻo lánh của Tổ quốc. Cuộc sông lao động của người lái đò vô danh nơi hoang vu kia xứng đáng là một thiên anh hùng ca lao động.
Đặc sắc nghệ thuật
Người lái đò Sông Đà là một thiên tùy bút khẳng định trình độ nghệ thuật bậc thầy của ngòi bút Nguyễn Tuân - một ngòi bút độc đáo, tài hoa và uyên bác.
Cảnh vật, con người Tây Bắc thông qua cặp mắt và tâm hồn của một người nghệ sĩ tài năng, tinh tế, thiết tha với quê hương đất nước, đã hiện lên trong trang văn với những vẻ đẹp vừa quen vừa lạ vô cùng kấp dẫn.
Tùy bút Người lái đò sông Đà đã cuốn người đọc vào một đòng thác của ngôn từ; của những hình ảnh so sánh liên tưởng táo bạo, bất ngờ; của những câu văn giàu nhạc điệu, giàu cảm xúc.
Đọc tùy bút Người lái đò Sông Đà, có thể thấy Nguyễn Tuân đã sáng tạo những câu văn đầy hình ảnh và nhịp điệu, ví dụ như:
+ Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung- nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân..
+ [...] dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy.
Với những cách dùng hình ảnh và tạo nhịp điệu khác nhau, nếu câu đầu khắc họa thành công nét dịu dàng thơ mộng của sông Đà thì câu thứ hai cho thấy sự hung bạo, dữ dội của con sông này.
Tác giả còn sáng tạo những câu văn với những so sánh liên tưởng rất táo bạo, bất ngờ như:
+ Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lử, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.
ở đây tác giả dùng lửa để tả nước, dùng tiếng gầm thét của đàn trâu mộng để tả thác dữ, cách tả như vậy thật hiếm có.
+ Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử . Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.
Khó ai có thể hiểu rõ được một bờ tiền sử, một nỗi niềm cổ tích là gì, nhưng vẫn cảm nhận được vẻ thơ mộng, nguyên sơ của bờ sông Đà.
* Áng văn còn đem lại cho người đọc một khối lượng kiến thức phong phú thuộc các lĩnh vực thơ ca, địa lí, lịch sử, điện ảnh, hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc, võ thuật, quân sự,... chỉ có thể có được từ sự lịch lãm và vòn văn hóa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân.
Đọc tùy bút Người lái đò Sông Đà, ta được cung cấp những tri thức thuộc nhiều ngành nghệ thuật và khoa học khác nhau.
Đó là những tri thức về địa lí: sông Đà bắt nguồn từ đâu, “nhập quốc tịch” Việt Nam ở điểm nào, chiều dài bao nhiêu, có những con thác nào,...;
Tri thức về lịch sử: khu vực sông Đà thời phong kiến thuộc đạo lộ nào, nhất là vào thời Pháp thuộc và thời kháng chiến chông Pháp, sông Đà đã chứng kiến những sự kiện gì,...;
Tri thức về quân sự và võ thuật: tả “thạch trận” và cuộc vượt thác;
Tri thức về văn học: tục ngữ ca dao, truyền thuyết, thơ Đường, thơ Nguyễn Quang Bích, thơ Tản' Đà,...;
Tri thức về điện ảnh: tả hút nước sông Đà;
Tri thức về âm nhạc: tả âm thanh của thác nước;
Tri thức về hội họa và điêu khắc: tả màu sắc sông Đà, cảnh thiên nhiên ven sông...
Tổng kết
“Người lái đò Sông Đà” là bài ca thiên nhiên Tây Bắc vừa hoang sơ, hùng vĩ, vừa kiều diễm, thơ mộng; con người Tây Bắc vừa cần cù, dũng cảm, vừa khéo léo, tài hoa.
Tác phẩm là một bằng chứng sinh động về sự tài hoa của Nguyễn Tuân qua việc dựng người, dựng cảnh với những liên tưởng, so sánh táo bạo, bằng vốn ngôn ngữ rất mực phong phú được sử dụng một cách điêu luyện, công phu.
IL ĐÊ VĂN LUYỆN TẬP
Đề: Vẻ đẹp của áng văn Người lái dò Sông Đà.	
BÀI VIẾT GỢI Ý
Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân là bài bút kí đặc sắc, kết quằ của chuyên thâm nhập thực tế vùng sông Đà 1958 - 1960 của nhà văn, in trong tập bút kí Sông Đà (1960). Cảm hứng gắn bó với mảnh đất và con người Tây Bắc đã in đậm trong hình ảnh người lái đò nghệ sĩ và con sông Đà vừa hùng vĩ vừa nên thơ.
Bản thân Nguyễn Tuân khi viết nên tác phẩm này đã thực hiện hoàn tất một hành trình khẳng định phong cách tùy bút độc đáo của nhà văn khi đi theo con đường cách mạng. Vòn sông và tài năng của người nghệ sĩ tài hoa này đã gặp được môi trường Tây Bắc với bao nhiêu vẻ đẹp tiềm ẩn trong mảnh đất và con người, từ đó giúp ông có những phát hiện mới mẻ, tô đậm những ấn tượng kì vĩ và nên thơ về Tây Bắc trong lòng bạn đọc.
Thiên tuỳ bút Người lái đò Sông Đà trước hết đem lại cho chúng ta ấn tượng đặc biệt về hình ảnh và công việc của ông lái đò Lai Châu, người mà nhà văn đã gọi là bạn trên tinh thần quy thuận quần chúng một cách tự giác (chữ đùng của Nguyễn Tuân). Ông lái đò là hình ảnh một người lao động mà sông nước đã in dấu vào trong từng chi tiết ngoại hình: tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái cuông lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó... Tuổi tác không làm mất đi sức sông mạnh mẽ và lòng yêu mến gắn bó với công việc của ông. Bằng cách tạo ấn tượng đặc biệt về nhân vật từ ban đầu, nhà văn dẫn dắt chúng ta vào thế giới sông nước chứa đựng bao thử thách hiểm nguy nhưng có sức cuốn hút riêng với những người ưa thích phiêu lưu mạo hiểm. Bằng thủ pháp của điện ảnh, bằng ngôn từ của mình, Nguyễn Tuân đã dựng lên cả một thế giới sông nước sinh động: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy”. Ây vậy nhưng ông lão tuổi bảy mươi đã bao phen thể hiện tài năng vượt thác leo ghềnh, vượt qua thử thách hiểm nguy mà vẫn còn trẻ tráng, dẻo dai !
Câu chuyện vượt sông Đà đã được nhà văn kể lại bằng tất cả niềm hứng khởi về sức mạnh con người chiến thắng thiên nhiên, với tất cả kịch tính, cao trào để tôn vinh nghệ thuật chinh phục thác đá sông Đà. Con sông Đà dữ tợn với thần sông tướng đá bủa giăng thế trận vây lấy chiếc thuyền đơn độc được nhà văn miêu tả bằng ngôn ngữ phong phú của tiểu thuyết chương hồi như gợi cuộc phá vây của mãnh tướng Triệu Tử Long xông vào trận quân Tào Tháo, bên cạnh đó nhà văn có những dòng mô tả chân dung bằng giọng văn rất hóm hỉnh của riêng mình: “Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này...”. Cuộc đôi đầu giữa con người trên chiếc thuyền đơn độc với boong-ke chìm và pháo đài nổi trong cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn có sức hấp dẫn đặc biệt. Có lẽ nhà văn đã hình dung ra không khí của những hội vật truyền thống khi miêu tả các cuộc đấu sức, đấu trí và đâu sự nhanh nhẹn giữa người và đá nước. Cuộc đâu có miếng, có mưu, cuối cùng phần chiến thắng thuộc về con người, bởi lẽ ông đã thuộc quỳ luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Hình ảnh bình thường của người lao động, vật lộn với sóng nước đã được Nguyễn Tuân nâng lên ngang hàng danh tướng "biết mình biết ta trăm trận trăm thắng". Nhưng điều tác giả tô đậm nét hơn ở ông lái đò chính là chất nghệ sĩ toát lên từ công việc đối mặt với hiểm nguy đã trở thành bình thường. Ngay sau khoảnh khắc chiến thắng sức mạnh của thác đá, sóng dữ, thì sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đây mới chính là ông lái đò mang đậm nét Nguyễn Tuân. Con người chiến đấu với sông Đà dữ cũng chỉ là để mưu sinh, ngày nào củng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên những con người này cũng yêu mến dòng sông đã cho họ những cá anh vũ, cá dầm xanh, những hầm cá, hang cá túa ra đầy tràn ruộng. Sông Đà dữ thì có diện mạo và tâm địa của kẻ thù sô' một, nhưng khi sông nước thanh bình, vẻ đẹp nên thơ gợi cảm của dòng sông lại hiện về nguyên vẹn.
Nhà văn đã dành những trang viết thấm đẫm chất trữ tình để miêu tả vẻ đẹp dịu dàng của dòng sông mang trong lòng những huyền sử thuở khai thiên lập địa của cha ông. "Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân", "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích...", "mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa"...Đó là thời điểm cho câu chữ Nguyễn Tuân lai láng chất thơ ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông, bằng cái nhìn và tình cảm của một người tự nhận sông Đà như một "cố nhân". Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của "bờ sông Đà, bãi sôqg Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà", vẻ đẹp ấy như trang nghiêm trong mạch Đường thi cổ điển, vừa lắng đọng hoài vọng về một thuở Lý Trần Lê, vừa bâng khuâng cảm giác về sự sông nảy lộc đâm chồi: "Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa". Nhà văn đã để cho dòng cảm xúcìlào dạt thót lên thành lời đổì thoại im lặng với thiên nhiên, bờ bãi ven sông, dường như con người muôn hòa vào cùng cảnh vật, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuốn hút của dòng sông. Ngòi bút nhà văn đến lúc này mới thật sự tung hoành trong sự say sưa khám phá cội nguồn, kể về lịch sử dòng sông gắn với cuộc sông và con người Tây Bắc, những người đã đón nhận những tặng vật hào phóng của sông Đà. Cảm xúc từ thực tại của Nguyễn Tuân còn khơi nguồn cho những mơ ước mang tính dự báo về tương lai, biến sức mạnh của dòng sông trái tính trái nết thành nguồn thủy điện dồi dào. Rõ ràng, thực tại cuộc sông mới đã giúp cho Nguyễn Tuân có những dự cảm chính xác, có niềm tin vững chắc vào những con người đang xây dựng một chế độ mới, đem lại sinh khí mới cho cuộc sông ở sông Đà.
Với Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân đã ghi dấu ấn không trộn lẫn của mình ở thể loại tùy bút, bám sát hiện thực, say mê khám phá những nét ấn tượng, những vẻ đẹp tiềm ẩn từ hiện thực. Hơn thế nữa, tác phẩm còn đánh dấu sự vững vàng trong tư tưởng tình cảm của nhà văn, sự nhạy cảm tinh tế của một tâm hồn nghệ sĩ yêu đất nước, yêu con người lao động, tin vào cách mạng, vào con đường dân tộc đang hướng tới. Tấm lòng ấy, tài năng ấy của Nguyễn Tuân thật đáng trân trọng.
Đềi Nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” và nhân vật ông lái đò trong “Người lái đò Sông Đà” có những điểm gì giông và khác nhau ?
Điều đó gợi cho anh (chị) suy nghĩ như thế nào về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân sau Cách mạng ?
GỢIÝ
Hình tượng ông lái đò và hình tượng nhân vật Huấn Cao có điểm giông nhau: họ đều được Nguyễn Tuân xây dựng như những nhân vật tài hoa nghệ sĩ.
Huấn Cao là một nghệ sĩ có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp.
Ông lái đò tuy là người lao động bình thường nhưng có thể coi là một nghệ sĩ trong nghệ thuật leo ghềnh vượt thác.
Tuy vậy, họ có những điểm khác nhau:
Huấn Cao là con người của quá khứ, của lịch sử, nay chỉ còn “vang bóng”; ông lái đò là con người của hiện tại, của hôm nay.
Huấn Cao là người đặc biệt, siêu phàm; ông lái đò là con người bình thường của cuộc sông thường nhật.
Huấn Cao đối lập sâu sắc với xã hội, trở thành kẻ tử thù của xã hội bất công; ông lái đò là một con người đang ngày đêm đem sức lực và trí tuệ xây dựng quê hương, đất nước.
Điều đó nói lên phần nào đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân với sự ổn định lẫn sự vận động trong phong cách ở hai giai đoạn trước và sau Cách mạng.