Soạn bài Khái quát văn học Việt Nam từ cách mnạng tháng tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX

  • Khái quát văn học Việt Nam từ cách mnạng tháng tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX trang 1
  • Khái quát văn học Việt Nam từ cách mnạng tháng tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX trang 2
  • Khái quát văn học Việt Nam từ cách mnạng tháng tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX trang 3
  • Khái quát văn học Việt Nam từ cách mnạng tháng tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX trang 4
  • Khái quát văn học Việt Nam từ cách mnạng tháng tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX trang 5
  • Khái quát văn học Việt Nam từ cách mnạng tháng tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX trang 6
  • Khái quát văn học Việt Nam từ cách mnạng tháng tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX trang 7
  • Khái quát văn học Việt Nam từ cách mnạng tháng tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX trang 8
  • Khái quát văn học Việt Nam từ cách mnạng tháng tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX trang 9
  • Khái quát văn học Việt Nam từ cách mnạng tháng tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX trang 10
  • Khái quát văn học Việt Nam từ cách mnạng tháng tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX trang 11
  • Khái quát văn học Việt Nam từ cách mnạng tháng tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX trang 12
KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM
TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN HẾT THẾ KỈ XX
KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
NĂM 1945 ĐẾN 1975
Vài nét về hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa
Cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 vĩ đại đã mở ra một kĩ nguyên mới cho đất nước ta. Từ đây, một nền văn học mới gắn liền với lí tưởng độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội được khai sinh.
Văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến 1975 là nền vãn học của chế độ mới, phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Chính đường lôi văn nghệ của Đảng là nhân tô" có tính chất quyết định để tạo nên một nền văn học thông nhất về khuynh hướng tư tưởng, thông nhất về tổ chức và về quan niệm nhà văn kiểu mới: nhà văn - chiến sĩ trên đất nước ta suốt mấy chục năm qua.
Thời kì này, trên đất nước ta diễn ra nhiều biến cố, sự kiện lớn lao: cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp; công cuộc xây dựng cuộc sống mới, con người mới ở miền Bắc; cuộc kháng chiến ái quốc vĩ đại chông .thực, dân Pháp và để quốc Mĩ đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc, trong đó có văn học nghệ thuật.
Trong hoàn cảnh, nền kinh tế nghèo nàn và chậm phát triển; điều kiện giao lưu văn hóa với nước ngoài không thuận lợi, chỉ giới hạn trong một số nước, chủ yếu tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của văn hóa các nước xã hội chủ nghĩa (Liên Xô, Trung Quốc) văn học vẫn phát triển và đạt được những thành tựu to lớn.
Quá trình phát triển và những thành tựu chủ yếu
Chặng đường từ năm 1945 đến năm 1954
Ngay sau tháng 8 năm 1945: chủ đề bao trùm nền văn học trong những ngày đầu đất nước giành được độc lập là ca ngợi Tổ quốc và quần chúng cách mạng, kêu gọi tinh thần đoàn kết toàn dân, cổ vũ phong trào Nam tiến, biểu dương những tấm gương vì nước quên mình. Hình ảnh cả dân tộc đang trỗi dậy, niềm tự hào đến mức say mê trước cuộc tái sinh màu nhiệm (Hoài Thanh) của dân tộc được biểu lộ qua những tác phẩm: Dân khí miền Trung của Hoài Thanh, Huế tháng Tám và Vui bất tuyệt của Tố Hữu, Ngọn quốc kì và Hội nghị non sông của Xuân Diệu, Tình sông núi của Trần Mai Ninh,...
Từ cuối năm 1946: văn học tập trung phản ánh cuộc kháng chiến chông thực dân Pháp. Văn học gắn bó sâu sắc với đời sông cách mạng và kháng chiến, hướng tới đại chúng, tập trung khám phá sức mạnh của quần chúng nhân dân cùng với những phẩm chất tốt đẹp, những tình cảm công dân cao cả như lòng yêu quê hương, đất nước, chí căm thù giặc, tình đồng bào đồng chí, thể hiện niềm tự hào dân tộc và niềm tin vào tương lai tất thắng của cuộc kháng chiến.
Nhanh nhạy và kịp thời, truyện ngắn và kí là những thể loại mở đầu cho văn xuôi kháng chiến chông thực dân Pháp. Những tác phẩm tiêu biểu trong những năm đầu kháng chiến là Một lần tới Thủ đô, Trận phố Ràng của Trần Đăng, truyện ngắn Đôi mắt và nhật kí Ở rừng của Nam Cao, truyện ngắn Làng của Kim Lân, Thư nhà của Hồ Phương,...
Từ năm 1950: văn học có nhiều thành tựu hơn.
+ Về văn xuôi: đã bắt đầu 'xuất hiện những tập truyện kí khá dày dặn. Đáng chú ý là các tác phẩm được giải thưởng truyện kí 1Ồ51 - 1952: Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Xung kích của Nguyễn Đình Thi, Kí sự Cao Lạng của Nguyền’ Huy Tưởng và những tác phẩm được tặng giải nhất trong giải truyện kí 1954 - 1955: Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Truyện Tây Bắc của Tô Hoài, Con trâu của Nguyễn Văn Bổng.
Truyện kí những năm kháng chiến chông Pháp còn bộc lộ một số hạn chế: hiện thực được phản ánh chưa thật phong phú; miêu tả tâm lí nhân vật chưa sâu sắc; nhân vật quận chúng cách mạng nổi trội hơn, có phần lân át con người cá thể.
+ Thơ trong những năm kháng chiến chông Pháp đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Tình yêu quê hương đất nước và lòng căm thù giặc là cảm hứng chính của thơ ca. Hình ảnh quê hương và hình ảnh những con người kháng chiến từ anh vệ quốc quân, bà mẹ, bà chị đến em bé liên lạc được thể hiện chân thực, đầy gợi cảm. về nghệ thuật, thơ đậm đà tính dân tộc, khai thác có hiệu quả những thể thơ truyền thống. Tiêu biểu cho thơ ca kháng chiến là những bài Cảnh khuya, Rằm tháng giêng (Nguyên tiêu), Tin thắng trận (Báo tiệp) của Hồ Chí Minh, Nhớ của Hồng Nguyên, Tây Tiến của Quang Dũng, Bên kia sông Đuống của Hoàng cầm, Cá nước, Việt Bắc của Tô" Hữu, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Bao giờ trở lại của Hoàng Trung Thông, Đồng chí của Chính Hữu, Dọn về làng của Nông Quốc Chấn,...
Một số vở kịch ngắn xuất hiện, phản ánh hiện thực cách mạng và kháng chiến. Bắc Sơn, Những người ở lại của Nguyễn Huy Tưởng, Chị Hòa của Học Phi là những vở kịch được chú ý trong chặng đường này.
Lí luận, phê bình, nghiến cứu văn học từ 1945 đến 1954 có nhiều sự kiện và tác phẩm có ý nghĩa quan trọng. Bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam (1948) của đồng chí Trường Chinh, cuộc tranh luận về nghệ thuật ở Việt Bắc (1949) có ý nghĩa mở đường cho văn học nghệ thuật. Bài tiểu luận Nhận đường của Nguyễn Đình Thi, tập phê bình tiểu luận Nói chuyện thơ ca kháng chiến và Quyền sống của con người trong Truyện Kiều của Hoài
Thanh, Giảng văn Chinli phụ ngâm của Đặng Thai Mai là những tác phẩm tiêu biểu.
6. Chặng đường từ năm 1954 đến năm 1964
Đây là chặng đường văn học trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thông nhất đất nước. Văn học tập trung thể hiện hình ảnh người lao động, ngợi ca những đổi thay của đất nước và con người trong bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng một cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui và niềm lạc quan tin tưởng. Nhiều tác phẩm văn học trong giai đoạn này đã thể hiện tình cảm sâu nặng với miền Nam ruột thịt, nói lên nỗi đau chia cắt và thể hiện ý chí thông nhất đát nước.
Văn xuôi mở rộng đề tài, bao quát được khá nhiều vấn đề, nhiều phạm vi của hiện thực đời sống. Nhiều tác phẩm viết về sự đổi đời của con người trong xã hội mới, miêu tả sự biến đổi số phận và tính cách nhân vật trong môi trường và hoàn cảnh xã hội tốt đẹp. Không ít tác phẩm đi theo hướng này đã thể hiện được khát vọng hạnh phúc của con người, có ý nghĩa nhân bản khá sâu sắc như Đi bước nữa của Nguyễn Thế Phương, Mùa lạc của Nguyễn Khải, Anh Keng của Nguyễn Kiên,... Một số tác phẩm tập trung khai thác đề tài kháng chiến chông Pháp, không chỉ ngợi ca chủ nghĩa anh hùng, tinh thần bất khuất mà còn phản ánh được phần nào những hi sinh gian khổ, những tổn thất và số phận của con người trong chiến tranh như tiểu thuyết sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Cao điểm cuối cùng của Hữu Mai, Trước giờ nổ súng của Lê Khâm,...
Văn xuôi chặng đường này còn xuất hiện những tiểu thuyết viết về hiện thực đời sông trước Cách mạng với cách nhìn, khả năng phân tích và sức khái quát mới: Tranh tối tranh sáng của Nguyễn Công Hoan, Mười năm của Tô Hoài, Phất của Bùi Huy Phồn. Nguyễn Đình Thi và Nguyên Hồng đã phản ánh hiện thực đau thương và anh dũng của dân tộc từ thời kì Mặt trận Dân chủ đến Cách mạng tháng Tám trong những bộ tiểu thuyết đồ sộ Vỡ bờ (hai tập, Nguyễn Đình Thi) và Cửa biỉ.„ (bốn tập, Nguyên Hồng).
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã thu hút sự quan tâm của nhiều cây bút. Nhiều chuyến đi thực tế được tổ chức tạo điều kiện cho các nhà văn thâm nhập vào đời sồng hiện thực mói. Sông Đà của Nguyễn Tuân, Bốn năm sau của Nguyễn Huy Tưởng, Mùa lạc của Nguyễn Khải, Cái sân gạch của Đào Vũ,... bước đầu khẳng định thành tựu của văn xuôi viết về đề tài mới này. Tuy nhiên, văn xuôi chặng đường này còn nhiều hạn chế. Không ít tác phẩm thể hiện con người và cuộc sông một cách đơn giản, phẩm chất nghệ thuật còn non kém.
Thơ từ năm 1955 đến năm 1964 phát triển mạnh mẽ. Sự hồi sinh của đất nước sau những năm tháng kháng chiến chông Pháp đầy hi sinh gian khổ, thành tựu bước đầu của công cuộc xầy dựng chủ nghĩa xã hội, sự hòa hợp giữa cái riêng và cái chung, nỗi đau chia cắt hai miền Nam Bắc,... là những nguồn cảm hứng lớn của thơ ca. ơ những tác phẩm thành công, thơ ca đã kết hợp hài hòa yếu tổ’ hiện thực và yếu tô' lãng mạn cách mạng. Thơ ca đã có được một mùa gặt bội thu với các tập thơ Gió lộng của Tô' Hữu, Ánh sáng và phù sa của Chê' Lan viên; Riêng chung của Xuân Diệu, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời” của
Huy Cận, Gửi miền Bắc và Tiếng sóng của Tế Hanh; Bài thơ Hắc Hải của Nguyễn Đình Thi; Những cánh buồm của Hoàng Trung Thông. Nỗi đau chia cắt đất nước, nỗi nhớ quê hương và khát vọng giải phóng miền Nam là nguồn cảm hứng của nhiều bài thơ đặc sắc của Tô Hữu, Tế Hanh, Nguyễn Bính. Từ miền Nam, các nhà thơ Thanh Hải, Giang Nam đã sớm có nh'ững bài thơ hay, xúc động về miền Nam yêu thương và anh dũng như các bài thơ Mồ anh hoa nở và Quê hương.
Kịch nói ở chặng đường này cũng phát triển. Những vở kịch được dư luận chú ý là Một đảng viên của Học Phi, Ngọn lửa của Nguyễn Vũ, Quẫn của Lộng Chương, Chị Nhàn và Nổi gió của Đào Hồng cẩm,...
c) Chặng đường từ năm 1965 đến năm 1975
Chặng đường này, toàn bộ nền văn học từ Bắc chí Nam' được huy động tổng lực vào cuộc chiến đấu, tập trung khai thác đề tài chông Mĩ cứu nước. Chủ đề bao trùm là ca ngợi tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Từ tiền tuyến lớn, những tác phẩm truyện kí viết trong máu lửa của chiến tranh đã phản ánh nhanh nhạy và kịp thời cuộc chiến đấu của quân dân miền Nam anh dũng. Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Giấc mơ ông lão vườn chim của Anh Đức, Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng, tiểu thuyết Hòn Đất của Anh Đức, Mẫn và tôi của Phan Tứ,... đã từng tạo được sự lôi cuốn, hấp dẫn người đọc trong những năm chông Mĩ.
ở miền Bắc, truyện kí cũng phát triển mạnh. Tiêu biểu là những tập kí chông Mĩ của Nguyễn Tuân; truyện ngắn của Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Vũ Thị Thường, Đỗ Chu; tiểu thuyết Vùng trời (ba tập) của Hữu Mai, Chiến sĩ của Nguyễn Khải, Cửa sông và Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, Bão biển (hai tập) của Chu Vàn,...
Thơ ca những năm chông Mĩ cứu nước đạt được nhiều thành tựu xuất sắc, thực sự là một bước tiến mới của nền thơ Việt Nam hiện đại. Thơ ca tập trung thể hiện cuộc ra quân vĩ đại của toàn dân tộc, khám phá sức mạnh của con người Việt Nam, nói tới sứ mệnh lịch sử, tầm vóc và ý nghĩa nhân loại của cuộc kháng chiến chông Mĩ. Thơ chông Mĩ thể hiện rất rõ khuynh hướng mở rộng và đào sâu hiện thực; đồng thời bổ sung, tăng cường, chất suy tưởng, chính luận. Các thế hệ nhà thơ đều vào trận và thế hệ nào cũng có những đóng góp rất đáng trân trọng. Nhiều tập thơ có tiếng vang, tạo được sự lôi cuốn hấp dẫn của thơ ca như Ra trận, Máu và hoa của Tô" Hữu; Hoa ngày thường - Chim báo bão, Những bài thơ đánh giặc của Chế Lan Viên; Hai đợt sóng, Tôi giàu đôi mắt của Xuân Diệu; Dòng sông trong xanh của Nguyễn Đình Thi; Đầu súng trăng treo của Chính Hữu; vầng trăng quầng lửa của Phạm Tiến Duật; Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm; Gió Lào cát trắng của Xuân Quỳnh; Hương cây - Bếp lửa của Lưu Quang Vũ và Bằng Việt; Cát trắng của Nguyễn Duy; Góc sân và khoảng trời của Trần Đăng Khoa,... Lịch sử thơ ca chặng đường này đặc biệt ghi nhận sự xuất hiện và những đóng góp của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chông Mĩ cứu nước. Đó là những nhà thơ đa phần là những người trực tiếp cầm súng, vừa đánh giặc vừa làm thơ. Thơ trẻ giàu những chi tiết chân thực của đời sống chiến trường, phản ánh được một phần cái ác liệt, những hi sinh, tổn thất trong chiến tranh, đặc biệt là đã dựng nên bức chân dung tinh thần của cả một thế hệ trẻ cầm súng “cả thế hệ dàn hàng gánh đắt nước trên vai” (Bằng Việt). Họ đã đem đến cho nền thơ hiện đại Việt Nam một tiếng thơ mới mẻ: trẻ trung, tinh nghịch, sôi nổi, thông minh. Đó là những Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Lề Anh Xuân, Lưu Quang Vũ, Bằng Việt, Nguyễn Mĩ, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận cầm, Trần Đăng Khoa,...
Kịch chông Mĩ cũng có những thành tựu đáng ghi nhận. Quê hương Việt Nam và Thời tiết ngày mai của Xuân Trình, Đại đội trưởng của tôi của Đào Hồng cẩm, Đôi mắt của Vũ Dũng Minh,... là những vở kịch tạo được tiếng vang lúc bấy giờ.
Chặng đường này, nhiều công trình nghiên cứu, lí luận, phê bình xuất hiện. Có giá trị hơn cả là những công trình của Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên,...
Nói tới văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 cũng cần phải lưu ý tới văn học vùng địch tạm chiếm, tức là vãn học dưới chế độ thực dân (cũ hoặc mới). Dưới chế độ Mĩ và chính quyền Sài Gòn, văn học chính thông ở các vùng địch tạm chiếm chủ yếu là những xu hướng tiêu cực phản động: xu hướng chông phá cách mạng, xu hướng đồi trụy,... Nhưng bên cạnh đó vẫn có xu hướng văn học tiến bộ, yêu nước và cách mạng. Xu hướng văn học này tuy bị đàn áp nhưng vẫn tồn tại, có lúc phải tạm thời lắng xuống, khi có điều kiện thuận lợi lại bùng lên mạnh mẽ với những tác phẩm chiến đâu trực diện với kẻ thù. Những tác phẩm này đều hướng tới mục tiêu phủ định chế độ bất công và tàn bạo, lên án bọn cướp nước và bán nước, thức tỉnh lòng yêu nước và ý thức dân tộc, nói lên khát vọng tự do, kêu gọi, cổ vũ các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên tập hợp lực lượng xuống đường đấu tranh.
Bên cạnh xu hướng yêu nước và cách mạng, trong những đô thị miền Nam thời kì địch tạm chiếm còn có xu hướng văn học viết về hiện thực xã hội, về đời sống văn hóa, phong tục, về vẻ đẹp của con người lao động. Đây là một xu hướng văn học có nội dung lành mạnh và giá trị nghệ thuật khá cao. Các tác giả tiêu biểu của những xu hướng văn học nói trên là Vũ Hạnh, Trần Quang Long, Đông Trình, Vũ Bằng, Thủy Thủ, Lý Chánh Trung, Lý Văn Sâm, Viễn Phương, Lê Vĩnh Hòa, Sơn Nam, Võ Hồng,... Những tác phẩm có giá trị của văn học vùng địch tạm chiếm là Bút máu của Vũ Hạnh, Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng, Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam,...
Đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975
Nền văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn
bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước
Đáp ứng yêu cầu lịch sử, vì mục tiêu chung của toàn dân tộc, văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước.
Ngay từ thời kì văn học mới được mở đầu, cùng với sự ra đời của nhà nước dân chủ nhân dân vận nước ngàn cân treo sợi tóc, lại trải qua 30 năm chiến tranh ác liệt chông thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, nền văn học mới sớm được kiến tạo theo mô hình “Văn hóa nghẹ thuật cũng là một mặt trận” (Hồ Chí Minh) cùng với kiểu nhà văn mới: nhà văn - chiến sĩ. Ý thức, trách nhiệm công dân của người nghệ sĩ được đề cao. Gắn bó với dần tộc, với nhân dân và đất nước, dùng ngòi bút để phục vụ kháng chiến, cổ vũ chiến đấu là đòi hỏi, yêu cầu của thời đại, đồng thời cũng là tình cảm, ý thức tự giác của nhà vãn. Và chính hiện thực đời sông cách mạng và kháng chiến đã đem đến nguồn cảm hứng lớn, những phẩm chất mới cho văn học: “Văn nghệ phụng sự kháng chiến, nhưng chính kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sông mới. sắt lửa mặt trận đang đúc nên văn nghệ mới của chúng ta” (Nguyễn Đình Thi - Nliận đường).
Văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 tập trung vào đề tài Tổ quô'c: bảo vệ đất nước, đấu tranh giải phóng miền Nam, thông nhất đất nước. Toàn bộ nền văn học, từ thơ ca, truyện kí đến nghệ thuật sân khấu đều tập trung khai thác mâu thuẫn, xung đột giữa ta và địch; đặt lợi ích của Tổ quốc, của toàn dân tộc lên trên hết. Nhân vật trung tâm của văn học là người chiến sĩ trên mặt trận vũ trang và những lực lượng trực tiếp phục vụ chiến trường như dân quân du kích, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến,... Tổ quô'c trở thành nguồn cảm hứng lổn, một đề tài chủ yếu xuyên suốt những bài thơ của Tô' Hữu, Chế Lan Viên, Giang Nam, Thanh Hải, Thu Bồn, Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm; trong những truyện ngắn của Nguyễn Thi, Anh Đức, Nguyên Ngọc, Nguyễn Quang Sáng; trong tiểu thuyết của Anh Đức, Phan Tứ, Nguyễn Minh Châu,...
Cùng với đề tài Tổ quốc, chủ nghĩa xã hội cũng là một đề tài lớn của văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975. Miền Bắc được giải phóng, sau mấy năm hàn gắn vết thương chiến tranh đã bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sông mới, con người mới. Chủ nghĩa xã hội là mơ ước, là cái đích hướng tới của toàn dân tộc, là khát vọng vươn tới những tầm cao mới của cuộc sông. Trung tâm chú ý của các nhà văn là hình ảnh con người mới, là môi quan hệ mới giữa những người lao động, là sự hòa hợp giữa cái riêng với cái chung, giữa cá nhân và tập thể. Văn học giai đoạn này đề cao lao động, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Lao động cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng trên mặt trận sản xuất và xây dựng đất nước. Những tiểu thuyết của Nguyễn Khải, Đào Vũ, Chu Văn; những bài thơ của Tố” Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Hoàng Trung Thông,... là những sáng tác tiêu biểu.
Như vậy, có thể coi vàn học như một tâm gương phản chiếu những vấn đề lớn lao, trọng đại nhất của đất nước và cách mạng từ 1945 đến 1975: đấu tranh thông nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong thực tế thì cũng không có sự tách bạch hoàn toàn giữa hai đề tài lớn này. Chúng có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau trong sáng tác của từng tác giả, thậm chí có sự hòa hợp trong cùng một tác phẩm. Giai đoạn này cũng có những sáng tác viết về những đề tài khác; nhưng đó không phải là những tác phẩm thuộc dòng chủ lưu. Nhìn chung, Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội là đề tài bao quát toàn bộ nền văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975, làm nên diện mạo riêng của văn học giai đoạn này.
Nền văn học hướng về đại chúng
Đại chúng vừa là đôi tượng phản ánh và đô'i tượng phục vụ, vừa là nguồn cung cấp, bổ sung lực lượng sáng tác cho văn học. Cách mạng và kháng chiến đã làm thay đổi hẳn cách nhìn nhân dân của nhiều nhà văn; đồng thời, hình thành ở họ một quan niệm mới về đất nước: đất nước của nhân dân. Chính nhân dân đã xây dựng, gìn giữ và bảo vệ đất nước bằng mồ hôi, nước mắt và máu xương của mình qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là cảm hứng chủ đạo, là chủ đề của nhiều tác phẩm văn học viết về đất nước trong văn học giai đoạn này.
Văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 quan tâm đến đời sông của nhân dân lao động, nói lên những bất hạnh của những người lao động nghèo khổ bị áp bức, bóc lột trong xã hội cũ cũng như niềm vui, niềm tự hào của họ về cuộc đời mới. Nhiều tác phẩm đã thể hiện con đường tất yếu đến với cách mạng của những người lao động bị dồn đẩy đến bước đường cùng, phát hiện ở họ khả năng cách mạng và phẩm chất anh hùng. Nền văn học mới cũng tập trung khắc họa hình tượng quần chúng cách mạng, miêu tả hình tượng người nông dân, người mẹ, chị phụ nữ, em bé,... diễn tả vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân lao động. Có thể nói, đó là một nền văn học có tính nhân dân sâu sắc và nội dung nhân đạo mới.
Hướng về đại chúng, văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 phần lớn là những tác phẩm ngắn gọn, nội dung dễ hiểu, chủ đề rõ ràng. Văn học cũng thường tìm đến những hình thức nghệ thuật quen thuộc với nhân dân ở ngay trong kho tàng văn hóa dân gian và văn học truyền thông. Ngôn ngữ nghệ thuật bình dị, trong sáng, dễ hiểu đốì với nhân dân.
Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt kéo dài suốt 30 năm, vấn đề dân tộc nổi lên hàng đầu. Văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 không thể là tiếng nói riêng của mỗi cá nhân mà tất yếu phải đề cập đến số phận chung của cả cộng đồng, của toàn dân tộc. Văn học mang đậm chất sử thi, tập trung phản ánh những vấn đề cơ bản nhất, có ý nghĩa sông còn của đất nước: Tổ quốc còn hay mất, độc lập tự do hay nô lệ. Đây là văn học của những vâín đề, những sự kiện có ý nghĩa lịch sử và tính cách toàn dân tộc, của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng. Nhân vật chính thường tiêu biểu cho lí tưởng chung của dân tộc, gắn bó số phận mình với số phận đất nước, thể hiện và kết tinh những phẩm chất cao đẹp của cả cộng đồng. Con người chủ yếu được khám phá ở bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, ý thức chính trị, ở lẽ sống lớn và tình cảm lớn. Cái riêng tư, đời thường nếu được nói đến thì chủ yếu cũng là để nhấn mạnh thêm trách nhiệm và tình cảm của cá nhân đối với cộng đồng. Lời ván sử thi cũng thường mang giọng điệu ngợi ca, trang trọng và đẹp một cách tráng lệ, hào hùng.
Khuynh hướng sử thi đòi hỏi người cầm bút nhìn con người và cuộc đời không chỉ bằng con mắt của cá nhân mình mà chủ yếu là bằng đôi mat có tầm bao quát của lịch' sử, đân tộc và thời đại. Tô" Hữu gọi đó là con mắt “nhìn bốn hướng - Trông lại ngàn xưa, trông tới mai sau - Trông Bắc, trông Nam, trông cả địa cầu”; còn Chế Lan Viên gọi là “con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống Đa”. Với cái nhìn sử thi, nhiều nhà văn, nhà thơ đã dồn tâm huyết để viết về những con người đại diện cho tinh hoa và khí phách, phẩm chất và ý chí của toàn dân tộc. Đó là những con người có khả năng đáp ứng được những đòi hỏi của dân tộc và thời đại, nhân danh cộng đồng mà chiến đấu vì sự sống còn của Tổ quốc. Với ý nghĩa đó, chị út Tịch trong sáng tác của Nguyễn Thi, chị Trần Thị Lý trong thơ Tố Hữu không chỉ là những cá nhân mà còn là biểu tượng của “Người mẹ cầm súng”, là hình ảnh tiêu biểu của “Người con gái Việt Nam” mang “trái tim vĩ đại - Còn một giọt máu tươi còn đập mãi - Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời - Cho quê hương em. Cho Tổ quốc, loài người”. Núp, Tnú trong tác phẩm của Nguyên Ngọc là hình ảnh anh hùng của Đát nước đứng lên, là biểu tượng của khí phách hiên ngang, tinh thần bất khuất của Rừng xà nu, của đồng bào Tây Nguyên, ông Tám xẻo Đước trong truyện ngắn của Anh Đức là biểu tượng cho sự vùng dậy quyết liệt của “Đắt", bà mẹ đào hầm chở che cho bộ đội trong thơ Dương Hương Ly là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng cho tấm lòng “rộng vô cùng” của nhân dân, của “Đất quê ta mênh mông”. Anh Giải phóng quân ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất vẫn trong tư thế đàng hoàng nổ súng tiến công trong thơ Lê Anh Xuân trở thành hình ảnh tượng trưng của “Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ”,...
Văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 vừa mang đậm tính sử thi vừa thấm đẫm chất trữ tình và cảm hứng lãng mạn. Khuynh hướng sử thi kết hợp vởi cảm hứng lãng mạn làm cho văn học giai đoạn này thấm nhuầm tinh thần lạc quan. Đó cũng là nét tâm lí chung của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong những năm tháng chiến tranh, dù có chồng chất khó khăn và hi sinh nhưng lòng vẫn tràn đầy mơ ước hướng tới tương lai tươi sáng. Cảm hứng lãng mạn chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới và vẻ đẹp của con người mới, ca ngợi chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 không phải là không có những tác phẩm vượt ra ngoài khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, nhưng những tác phẩm đó chỉ thuộc vào dòng phụ lưu của nền văn học. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đã đáp ứng được yêu cầu phản ánh hiện thực đời sống trong quá trình vận động và phát triển cách mạng của văn học giai đoạn này. Từ tiểu thuyết, truyện ngắn đến bút kí, tùy bút cho đến kịch bản sân khấu và cả thơ trữ tình đều thống nhất với nhau trong phương hướng miêu tả đời sống. Hướng vận động của cốt truyện, của xung đột nghệ thuật, của sô' phận, tính cách nhân vật, của cái tôi trữ tình và dòng cảm nghĩ của tác giả nói chung đều từ hiện tại vươn tới tương lai, từ bóng tối ra ánh sáng, từ gian khổ hi sinh đến niềm vui chiến thắng, từ nô lệ xiềng xích đến độc lập tự do,... Tất cả những yếu tố nói trên hòa hợp với nhau, tạo nên một đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 về khuynh hướng thẩm mĩ.
n. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ NÃM 1975 ĐEN HET
THẾ KỈ XX
Vài nét về hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa
Ngày 30 - 4 - 1975, cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại chông đế quốc Mĩ đã kết thúc thắng lợi. Lịch sử dân tộc lại mở ra một thời kì mới - thời kì độc lập, tự do và thông nhất đất nước. Tuy nhiên, từ năm 1975 đến nẳm 1985, đất nước ta lại gặp những thử thách, khó khăn mới, nhất là khó khăn về kinh tế chủ yếu do hậu quả nặng nề của chiến tranh tàn khốc kéo dài suốt 30 năm. Tình hình đó đòi hỏi đất nước phải đổi mới. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã chỉ ra đổi mới là “yêu cầu bức thiết”, là “vấn đề có ý nghĩa sông còn” của toàn dân tộc. Từ năm 1986, với công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản đề xướng và lãnh đạo, kinh tế nước ta từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường, văn hóa cũng có điều kiện tiếp xúc rộng rãi với vãn hóa nhiều nước trên thế giới. Văn học dịch, báo chí và các phương tiện truyền thông khác phát triển mạnh mẽ có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của văn học. Đất nước bước vào công cuộc đổi mới thúc đẩy nền văn học cũng phải đổi mới phù hợp với nguyện vọng của nhà văn và người đọc cũng như quy luật phát triển khách quan của nền văn học.
Những chuyển biến và một sô thành tựu ban đầu
Thơ
Từ sau 1975, thơ không tạo được sự lôi cuôh, hấp dẫn như ở giai đoạn trước. Tuy nhiên, vẫn có những tác phẩm ít nhiều tạo được sự chú ý của người đọc.
Nhiều nhà thơ có ý thức đổi mới thơ ca. Chế Lan Viên từ lâu vẫn âm thầm đổi mới, được thể hiện qua các tập “Di cảo thơ”. Những cây bút thuộc thế hệ chông Mĩ vẫn tiếp tục sáng tác, sung sức hơn cả là Xuân Quỳnh, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Đức Mậu,... Hiện tượng nở rộ trường ca sau năm 1975 đã tạo được tiếng vang trên thi đàn có thể xem là một trong những thành tựu nổi bật của thơ ca giai đoạn này. Khuynh hướng chung của những bản trường ca này là muôn tổng kết, khái quát về chiến tranh thông qua sự trải nghiệm riêng của mỗi nhà thơ trong suốt những năm trực tiếp cầm súng. Đó là trường ca Những người đi tới hiển của Thanh Thảo, Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh, Trường ca sư đoàn của Nguyễn Đức Mậu,... Sau hiện tượng nở rộ trường ca, nhiều tập thơ liên tiếp xuất hiện, nhưng nhìn chung, các nhà thơ vẫn viết theo tư duy cũ. Những tập thơ được dư luận chú ý không nhiều. Đáng chú ý hơn cả là Tự hát của Xuân Quỳnh, Người đàn bà ngồi đan của Ý Nhi, Thư mùa đông của Hữu Thỉnh, Ánh trăng của nguyễn Duy, Xúc xắc mùa thu của Hoàng Nhuận cầm, Nhà thơ và hoa cỏ của Trần Nhuận Minh, Gọi nhau qua vách núi của Thi Hoàng,... Những cây bút làm thơ thuộc thế hệ các nhà thơ sau năm 1975 xuất hiện ngày càng nhiều, đang từng bước khẳng định vị trí của mình, tiêu biểu là Phùng Khắc Bắc với tập Một chấm xanh, Y Phương với tập Tiếng hát tháng Giêng, Nguyễn Quang Thiều với tập Sự mất ngủ của lửa, Trần Anh Thái với tập Đổ bóng xuống mặt trời,...
Xu hướng chung của thơ ca từ sau 1975 là từ hướng ngoại chuyển sang hướng nội, mở rộng đề tài, có nhiều tìm tòi đổi mới cả về nội đung lẫn hình thức để vươn tới hòa nhập với những nền thơ lớn trên thế giới, nhưng độ kết tinh chưa cao.
.Văn xuôi
Từ sau năm 1975, văn xuôi tỏ ra có nhiều khởi sắc hơn thơ ca. Nhạy cảm với những vấn đề của đời sông, một sô' cây bút đã bộc lộ ý thức muôn đổi mới cách viết về chiến tranh, cách tiếp cận hiện thực đời sông' như Nguyễn Trọng Oánh với Đất trắng (1979), Thái Bá Lợi với Hai người trở lại trung đoàn (1979). Từ đầu những năm tám mươi của thế kỉ XX, tình hình văn đàn trở nên sôi nổi hơn với những tiểu thuyết chông tiêu cực như Đứng trước biền và Cù lao Tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn; những cuốn tiểu thuyết Cha và con và..., Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải; Mưa mùa hạ và Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng; Thời xa vắng của Lê Lựu; những tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê của Nguyễn Minh Châu,...
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), văn học chính thức bước vào chặng đường đổi mới. Do vấn đề đổi mới tư duy, phương châm nhìn thẳng vào hiện thực được coi trọng nên phóng sự điều tra có điều kiện phát triển mạnh mẽ, lúc đầu thu hút được sự chú ý của người đọc, tiêu biểu là những phóng sự của Phùng Gia Lộc, Trần Huy Quang, Trần Khắc, Hoàng Hữu Các, Hoàng Minh Tường,... Văn xuôi thực sự khởi sắc với những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao như các tập truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa và cỏ lau của Nguyễn Minh Châu; Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp; tiểu thuyết Mảnh đát lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường; Bến không chồng của Dương Hướng; Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Kí cũng phát triển, có được thành tựu mới như bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sáng'? của Hoàng Phủ Ngọc Tường, hồi kí Cát bụi chân ai và Chiểu chiều của Tô Hoài,...
Kịch nói
Kịch nói từ sau năm 1975 phát triển khá mạnh mẽ. Một số tác phẩm đã gây được tiếng vang là các vở Nhân danh công lí của Doãn Hoàng Giang, Hồn Trương Ba, da hàng thịt và Tôi và chúng tã của Lưu Quang Vũ, Mùa hè ở biền của Xuân Trình,...
Lí luận, nghiên cứu, phê bình văn học cũng có sự đổi mới. về đội ngũ, ngoài những cây bút có tên tuổi từ trước, đã xuất hiện một số người viết trẻ có triển vọng. Do được tiếp cận với nhiều nguồn thông tin mới, nhiều tiêu chí đánh giá văn học, hệ thông các khái niệm được vận dụng trong nghiên cứu phê bình đã được điều chỉnh và bổ sung. Nhiều nhà nghiên cứu, lí luận phê bình đã có ý thức tự giác cao hơn trong việc đổi mới phương pháp tiếp cận đối tượng. Giá trị nhân văn, ý nghĩa nhân bản và chức năng thẩm mĩ của văn học được đặc biệt chú ý.
Như vậy, từ năm 1975 và nhất là từ năm 1986, văn học Việt Nam từng bước chuyển sang giai đoạn mới. Có thể xem từ năm 1975 đến năm 1985 là chặng đường văn học chuyển tiếp, trăn trở, tìm kiếm con đường đổi mới. Còn từ năm
1986 trở đi là chặng đường đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc và khá toàn diện. Nhìn chung, văn học Việt Nam từ năm 1975 đến hết thế kỉ XX đã vận động theo khuynh hướng dân chủ hóa, mang tính nhân bản, nhân văn sâu sắc. Văn học phát triển đa dạng hơn về đề tài, chủ đề; phong phú và mới mẻ hơn về thủ pháp nghệ thuật. Văn học giai đoạn này đề cao cá tính sáng tạo của nhà văn, đổi mới cách nhìn nhận, cách tiếp cận về con người và hiện thực đời sông, đã khám phá con người trong những mối quan hệ đa dạng và phức tạp, thể hiện con người ở nhiều phương diện của đời sông, kể cả đời sông tâm linh. Cái mới của văn học giai đoạn này là tính chất hướng nộỉ, quan tâm nhiều hơn tới sô' phận cá nhân trong những hoàn cảnh phức tạp, đời thường.
Kinh tế thị trường đã có tác dụng tích cực đô'i với văn học: kích thích các tài năng sáng tác, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi nhiều mặt của người đọc. Nhưng mặt trái của kinh tế thị trường lại có tác động tiêu cực đô'i với một bộ phận của giới viết văn, làm báo, nhất là những cây bút chạy theo thị hiếu tầm thường của người đọc, biến sáng tác trở thành một thứ hàng hóa để câu khách. Vì thế, văn học từ năm 1975 đến hết thế kỉ XX, bên cạnh những mặt tích cực và những tìm tòi đúng hướng, cũng nảy sinh một vài khuynh hướng tiêu cực, những lúng túng bất cập, những biểu hiện quá đà, thiếu lành mạnh.
Nói tới văn học Việt Nam giai đoạn này, cũng cần chú ý đến sáng tác của những cây bút người Việt sông ở nước ngoài. Ở bộ phận văn học này cũng có những tác phẩm ít nhiều có giá trị của một vài tác giả có ý thức sáng tạo đích thực.
III. KẾT LUẬN
- Văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 đã kế thừa và phát huy mạnh mẽ những truyền thông tư tưởng lớn .của văn học dân tộc: chủ nghĩa nhân đạo, đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước. Văn học giai đoạn này cũng đạt được nhiều thành tựu về nghệ thuật ở nhiều thể loại, đặc sắc hơn cả là thơ trữ tình và truyện ngắn.
Văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 phát triển trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn. Vì thế, bên cạnh những thành tựu to lớn cũng còn nhiều hạn chế. Nội dung tư tưởng của nhiều tác phẩm chưa thật sâu sắc, cách nhìn con người và cuộc sông còn đơn giản, xuôi chiều, phiến diện. Văn học chưa có điều kiện khai thác sâu sắc những khó khăn, phức tạp của đời sông, những tổn thất, hi sinh, mất mát to lớn trong chiến tranh. Phẩm chất nghệ thuật của một số không ít tác phẩm còn non kém, cá tính sáng tạo và phong cách nghệ thuật của nhà văn còn mờ nhạt,... Tuy vậy, thành tựu của văn học giai đoạn này là cơ bản và to lớn. Hướng vào đời sông xã hội rộng lớn với nhiều biến cố, sự kiện trọng đại, văn học đã phản ánh được hiện thực của đất nước trong một thời kì lịch sử đầy gian khổ, hi sinh nhưng cũng hết sức vẻ vang của dân tộc ta, thực sự là tấm gương phản chiếu những phương diện cơ bản nhất của tâm hồn dân tộc. Với hai cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại, văn học thể hiện được lẽ sông, khát vọng lớn “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của toàn dân tộc; đã sáng tạo được những hình tượng cao đẹp về đất nước, về nhân dân, về các tầng lớp, thế hệ con người Việt Nam vừa giàu phẩm chất truyền thống, vừa mang đậm những nét mới của thời đại. Văn học đã nuôi dưỡng và phát huy lòng yêu nước và tinh thần dân tộc; góp phần quan trọng vào việc động viên, cổ vũ chiến đấu; có tác dụng to lớn trong việc xây dựng tư tưởng, bồi đắp tâm hồn, hoàn thiện và phát triển nhân cách cao đẹp của con người Việt Nam không chỉ ở thời đại ấy mà còn có ý nghĩa lâu dài cho những thế hệ mai sau. Đúng như nhận định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội Đảng lần thứ IV: Văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 “xứng đáng đứng vào hàng ngũ tiên phong của những nền văn học nghệ thuật chống đế quốc trong thời đại ngày nay”.
Từ năm 1975, nhất là từ năm 1986, cùng với đất nước, văn học Việt Nam bước vào công cuộc đổi mới. Văn học vận động theo khuynh hướng dân chủ hóa, đổi mới quan niệm về nhà văn, về vãn học và quan niệm nghệ thuật về con người; phát huy cá tính sáng tạo và phong cách nghệ thuật của nhà văn với những tìm tòi, thể nghiệm mới. Trong hoàn cảnh lịch sử có nhiều thuận lợi, sự giao lưu văn hóa với các nước trên thế giới được mở rộng, với truyền thông văn học của một dân tộc có hàng nghìn năm văn hiến, nhất định chúng ta sẽ xây dựng thành công một nền văn học tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc.
LUYỆN TẬP	
Đề: Trong bài Nhận đường, Nguyễn Đình Thi viết: “Văn nghệ phụng sự khảng chiến, nhưng chính kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sống mớỉ. sắt lửa mặt trận đang đúc nên văn nghệ mới của chúng ta”. Hãy bình luận ý kiến trên.
GỢIÝ
“Văn nghệ phụng sự kháng chiến” (ở đây là cuộc kháng chiến chông
Pháp): Nguyễn Đình Thi nói lên mục đích, lí tưởng nghệ thuật của nền văn học mới từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
“Nhưng chính kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sông mới”. Đây chính là sự khẳng định ảnh hưởng, tác động to lớn, sâu sắc của kháng chiến với văn nghệ. Chính hiện thực đời sông cách mạng và kháng chiến đã đem đến cho văn nghệ (trong đó có văn học) một nguồn cảm hứng mới, một sức sông mới.
Như vậy, ý kiến của nguyễn Đình Thi nói về mối quan hệ máu thịt giữa mục đích, lí tưởng nghệ thuật với thời đại, với hiện thực đời sông.
“Sắt lửa mặt trận đang đúc nên văn nghệ mới của chúng ta”. Đây là một nhận định thể hiện niềm tin vào sự hình thành và phát triển của nền văn nghệ mới gắn bó với đời sông dân tộc và cách mạng.