Soạn bài Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm, 1971)

  • Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm, 1971) trang 1
  • Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm, 1971) trang 2
  • Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm, 1971) trang 3
  • Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm, 1971) trang 4
  • Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm, 1971) trang 5
  • Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm, 1971) trang 6
  • Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm, 1971) trang 7
  • Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm, 1971) trang 8
  • Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm, 1971) trang 9
  • Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm, 1971) trang 10
  • Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm, 1971) trang 11
  • Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm, 1971) trang 12
  • Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm, 1971) trang 13
  • Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm, 1971) trang 14
ĐẤT NƯỚC
Nguyễn Khoa Điềm
KIẾN THỨC Cơ BẢN
A. Giới thiệu
Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế (quê góc làng An Cựu, xã Thủy An, thành phô' Huế), trong một gia đình trí thức cách mạng.
Nguyễn Khoa Điềm là gương mặt tiêu biểu của thế hệ nhà thơ chông Mĩ. Thơ ông là sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng về đất nước và con người Việt Nam.
Trường ca Mặt đường khát vọng được hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971 (in lần đầu năm 1974), viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đáu chống đế quốc Mĩ xâm lược.
3. Đoạn trích Đất Nước là phần đầu chương V của bản trường ca, được xem là một trong những đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại.
B. Đọc - hiểu văn bản
Những nét đặc sắc của đoạn thơ
Đoạn thơ có những phát hiện mới mẻ về đất nước trong chiều sâu văn hóa - lịch sử và trong cuộc sông đời thường của mỗi con người.
Tư tưởng cốt lõi của nhận thức về đâ't nước trong đoạn thơ là tư tưởng Đất nước của Nhân dân, nó quy tụ mọi cách nhìn về địa lí, lịch sử, văn hóa,... của đất nước.
Hình ảnh đâ't nước trong đoạn thơ là hình ảnh một đất nước dân gián thơ mộng, trữ tình từ xa xưa vọng về, quen thuộc, gần gũi với mọi người nên dễ cảm, dễ hiểu.
Tác giả đã vận dụng nhuần nhị và sáng tạo các yếu tố của văn hóa, văn học dân gian vào câu thơ hiện đại của mình, tạo nên màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc, vừa mới mẻ.
Đất Nước là đoạn thơ trữ tình - chính luận, thể hiện được những chỗ mạnh của thơ Nguyễn Khoa Điềm: kết hợp cảm xúc và suy nghĩ, chính luận và trữ tình. Tuy vậy, đôi chỗ yếu tố chính luận còn nặng nề, lấh át cảm xúc, ảnh hưởng đến sự cảm thụ thơ vôh là một thể loại trữ tình.
Bô cục
Đoạn thơ có hai phần:
Phần một là những cảm nhận mới mẻ và sâu sắc về đất nước trên nhiều bình diện.
Phần hai nói lên tư tưởng Đất Nước của Nhân dân.
Cảm nhận của nhà thơ về đất nước
Tác giả đã cảm nhận đất nước trong chiều sâu văn hóa - lịch sử và trong cuộc sống đời thường của mỗi con người. Vì vậy mà đất nước hiện lên vừa thiêng liêng, tôn kính, lại vừa gần gũi, thân thiết. Nhà thơ không dùng niên đại và sự kiện lịch sử, mà dùng giọng điệu quen thuộc của cổ tích bắt đầu bằng ngày xửa ngày xưa.... Sự ra dời của Đất Nước gắn với sự ra đời của những truyện cổ tích, của phong tục ăn trầu và tập quán búi tóc sau đầu, của lôi sông chung thủy nghĩa tình, của truyền thống chông ngoại xâm kiên cường và bền bỉ, của truyền thông lao động cần cù, của cách ăn cách ở trong sinh hoạt... Nói cách khác, sự ra đời của Đất Nước gắn liền với sự hình thành văn hoá, lối sống, phong tục tập quán của người Việt Nam. Cái hay của Nguyễn Khoa Điềm là đã nói về sự ra đời của Đất Nước bằng một cách nói giản dị đến bất ngờ (dùng những hình ảnh gần gũi trong cuộc sống hằng ngày, những tình cảm gia đình thân thương, những hình ảnh quen thuộc của ca dao, cổ tích, truyền thuyết...). Những gì làm nên Đất Nước cũng là những gì làm nên điệu hồn dân tộc, làm nên sự sống của mỗi người.
Đất Nước có trong những chuyện đời xưa, từ những phong tục văn hóa xa xưa (truyện cổ tích Trầu cau) đến truyền thông đánh giặc giữ nước (truyền thuyết Thánh Gióng)-, đất nước đó có nguồn gôc đẹp đẽ, thiêng liêng, tôn kính:
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Ầu Ca
Đẻ ra đồng bào ta trong bộc trứng
Nhưng Đất Nước cũng là cuộc sống đời thường của người dân, từ cuộc sông đời thường ấy mà có Đát Nước:
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng Đất Nước có từ ngày đó...
Và không chỉ là đời sông vật chất làm lụng lo toan hằng ngày, mà Đất Nước còn bắt nguồn từ đời sông tình cảm của con người {Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn), ngay cả tình yêu lứa đôi cũng góp phần làm nên Đất Nước:
Đắt là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Cảm nhận trên bình diện không gian địa lí, nhà thơ muôn nói Đất Nước không phải là cái gì xa xôi trừu tượng, mà là không gian sống gần gũi hàng ngày của mỗi con người, ở đó có kĩ niệm tuổi thơ, có tình yêu đôi lứa với những nỗi nhớ niềm thương. Đất Nước còn là không gian mênh mông của núi cao biển rộng:
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Đất Nước cũng là nơi sinh sông của bao thế hệ người Việt:
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Tác giả đã cảm nhận Đất Nước trên nhiều bình diện và có nhiều phát hiện mới mẻ về đất nước như cuộc sống đời thường của người dân cũng làm nên đất nước, đến cả tình yêu lứa đôi cũng là một yếu tô' làm nên gương mặt tinh thần của đất nước.
ở trên chiều rộng của không gian địa lí và chiều dài của thời gian lịch sử, Đất Nước được cảm nhận như sự thông nhất của các phương diện văn hóa, truyền thông, phong tục, cái hằng ngày và cái vĩnh hằng, trong đời sông mỗi cá nhân và cả cộng đồng...
Đất Nước làm nên sự sông của mỗi người:
Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước
Đó là một sự thật mà mỗi người Việt Nam ai cũng có, cũng đều cảm thấy. Đất Nước đã hóa thân vào mỗi người bởi chúng ta đều là con Rồng cháu Tiên, đều sinh ra và lớn lên trên Đất Nước này, đều hấp thụ những tinh hoa, phẩm chất của Đất Nước thành máu thịt, tâm hồn, nếp cảm nghĩ, cách sống,... của mình. Cho nên đến cả những người xa Tổ quốc vẫn giữ được cái phần Đất Nước ấy trong con người mình, vẫn mong tìm về với cội nguồn, với quê hương, đất nước.
Đất Nước vào trong ta một cách tự nhiên bằng nhiều con đường, trong đó có con đường văn học. Và đoạn thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã giúp ta hiểu sâu thêm nhiều vẻ đẹp mới mẻ của đất nước để làm phong phú thêm cái “phần Đất Nước” vốn có của mình.
Đất Nước có trong mỗi người, vì vậy mỗi người đều có trách nhiệm với Đất Nước:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hỉnh xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời...
4. Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” đã quy tụ mọi cách nhìn nhận và đưa đến những phát hiện sâu và mới của tác giả về địa lí, lịch sử và văn hoá... của Đất Nước, trong đó cách nhìn nhận về địa lí là mới lạ và độc đáo nhất.
Về địa lí
Nhà thơ nhìn trên bản đồ địa lí và phát hiện chính Nhân dân đã làm nên Đất Nước. Mỗi một địa danh, mỗi một vùng đất, mỗi danh lam thắng cảnh trên mọi miền đất nước đều in dấu công sức của Nhân dân. Bao thế hệ Nhân dân đã đem sự sống và tâm hồn mình để làm nên dáng hình, xứ sở, tô' điểm cho giang sơn gấm vóc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hìnli, một ao ước, một lối sống ông cha
Dưới góc nhìn Đất Nước của Nhân Dân - Nhân dân làm ra Đất Nước, tác giả thấy những danh lam thắng cảnh của Đất Nước gắn liền với đời sống dân tộc, nó chỉ trở thành thắng cảnh khi đã gắn liền với con người, được tiếp nhận, cảm thụ qua tâm hồn và lịch sử của dân tộc. Từ đó mà khái quát thành một tư duy thơ độc đáo, mang ý vị triết lí sâu sắc:
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...
về lịch sử
Nhìn vào chiều dài lịch sử bốn nghìn năm Đất Nước, nhà thơ lại thấy vai trò của bốn nghìn lớp người. Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân lại được tác giả nhấn mạnh và khắc sâu thêm bằng những đoạn thơ chính luận, mà tiêu biểu là sáu câu thơ khẳng định mạnh mẽ chân lí đó:
Có biết bao người con gái, con trai Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ dã sống và chết
Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Nhân dân chính là những người anh hùng vô danh, sông giản dị, chết bình tâm, hi sinh một cách vô tư để làm nên lịch sử của đất nước.
về văn hóa
Nhân dân không chỉ là những người anh hùng chông ngoại xâm, mà còn là những anh hùng văn hóa. Trong công cuộc lao động bền bỉ và vĩ đại, Nhân dân đã tạo ra sự sống, tạo ra tất cả những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần của cộng đồng người Việt:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi Họ truyền giọng diệu mình cho con tập nói Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Từ cách cảm nhận tổng hợp trên cả ba bình diện (chiều rộng của không gian địa lí, chiều dài của thời gian lịch sử, chiều sâu của văn hoá, lối sông, phong tục tập quán), nhà thơ đi đến một khẳng định quan trọng: Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại. Nói đến Nhân dân, Nguyễn Khoa Điềm nói đến ca dao thần thoại, bởi hơn ở đâu hết, đó là nơi thể hiện tập trung nhất, phong phú và sâu sắc nhất vẻ đẹp tâm hồn của nhân dần. Từ trong kho tàng ca dao thần thoại, nhà thơ chọn ra ba vẻ đẹp tiêu biểu đã trở thành truyền thông của con người Việt Nam: tình nghĩa thủy chung, quý trọng lao động, và kiên cường chống ngoại xâm.
Nghệ thuật biểu hiện
Tư tưởng cốt lõi Đất Nước của Nhân dân không chỉ chi phôi cách cảm nhận về đất nước mà còn thấm vào cả nghệ thuật biểu hiện, cách xây dựng hình tượng của đoạn thơ. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi chất liệu văn hóa, văn học dân gian để xây dựng hình tượng Đất Nước dân gian. Dân gian chính là dân tộc, lại là cái phần tiêu biểu, đậm đà nhất của dân tộc, cũng là của đất nước mình. Vì vậy, đất nước dân gian ấy sẽ có lợi thế trong việc tiếp nhận của người đọc: hình ảnh một đất nưởc dân gian thơ mộng, trữ tình từ xa xưa vọng về sẽ trở nên quen thuộc, gần gũi với mọi người nên dễ cảm, dễ hiểu, dễ nhận ra cái tư tưởng Đắt Nước của Nhân dân.
Nói cách khác, nhà thơ đã xây dựng hình tượng một “Đất nước của ca dao thần thoại” để thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân.
c. Tổng kết
Đoạn trích thể hiện cảm nhận mới mễ của tác giả về Đất Nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ồ chiểu sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí, văn hóa,...
Đóng góp riêng của đoạn trích là ở sự nhấn mạnh tư tưởng Đất nước của Nhân dân bằng hịnh thức biểu đạt giàu suy tư, qua giọng thơ trữ tình - chính luận sâu lắng, thiết tha.
Các chất liệu của văn hóa dân gian được sử dụng nhuần nhị, sáng tạo, đem lại sức hấp dẫn cho đoạn trích.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề'. So sánh gương mặt đất nước trong bài thơ “Đất Nước” của ■ Nguyễn Đình Thi và đoạn thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm, nêu rõ những điểm giông nhau, khác nhau và rút ra nhận xét.
GỢI Ý'
Những điểm giống nhau
Gương mặt Đất Nước: Đất Nước giàu đẹp, anh hùng, tình nghĩa.
Cách nhìn Đất Nước: Đất Nước của nhân dần, nhân dân là người làm ra đất nước.
Tình cảm của nhà thơ: Yêu quý và tự hào về Đất Nước.
Những điểm khác nhau:
Đất Nước của Nguyễn Đình Thi là hình ảnh Đất Nước giữa thế kỉ XX, đã đánh thắng thực dân Pháp, trưởng thành và tỏa sáng, mang màu sắc hiện đại. Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là hình ảnh Đất Nước mang đậm màu sắc dân gian như vọng về từ xa xưa: Đất Nước của ca dao, thần thoại.
Cách cảm nhận: Tuy cũng có nghĩ về truyền thông của dân tộc trong quá khứ, nhưng chủ yếu Nguyễn Đình Thi cảm nhận về Đất Nước bằng những cái hôm nay, bằng cuộc kháng chiến chông Pháp thắng lợi của một dân tộc anh hùng - tình nghĩa; còn Nguyễn Khoa Điềm thì lại cảm nhận về Đất Nước trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí, văn hóa dân gian và cả cuộc sông đời thường của Nhân dân.
Hai bài (đoạn) thơ đem đến cho ta những vẻ đẹp vừa giông nhau lại vừa có sắc thái riêng về đất nước đã góp phần hoàn thiện gương mặt Đất Nước trong thơ. Đó là những tiếng thơ hay về Đất Nước trong thơ ca hiện đại.
Đề'. Anh (chị) có suy nghĩ gì về điều phát hiện của nhà thơ: Đất Nước có ngay trong cuộc sông đời thường của mỗi người dân ? Điều phát hiện đó đúng đắn, sâu sắc như thế nào và nó được nối lên một cách gợi cảm và thấm thìa ra sao trong đoạn thơ ?
GỢI Ý
Đất' Nước có ngay trong cuộc sôìig đời thường của mỗi người dân - đó là một phát hiện sâu sắc, mới mẻ và có giá trị của nhà thơ:
Khái niệm Đất Nước không chỉ hiểu trên cương vực, lãnh thổ, đất đai, sông núi mà trong chiều sâu của nó, trong cái gốc của nó thì Đất Nước chính là Nhân dân. Đất Nước được gây dựng, bảo vệ, tồn tại và phát triển như thế nào, tất cả đều do Nhân dân; bởi Nhân dân là người làm ra Đất Nước. Vì vậy, nói đến Đất Nước là nói đến Nhân dân, yếu tô' quan trọng và quyết định của Đạt Nước.
Trước Nguyễn. Khoa Điềm, không phải không có người đã nói đến vai trò của Nhân dân. Tuy nhiên, trong tư duy thông thường của mọi người khi nghĩ về Đất Nước thì họ chỉ nghĩ về người dân ở những sự kiện lớn như đánh giặc giữ nước, khởi nghĩa giành chính quyền, xây dựng các công trình lớn,... Nguyễn Khoa Điềm lại đưa ta về với cuộc sông đời thường của mỗi người dân để nhấn mạnh rằng đó là những tế bào nhỏ đã xây nên cơ thể Đất Nước, những tế bào ấy đã được chắt chiu hặng ngày, hàng tháng, hàng năm,... qua hằng thế kỉ để làm nên bề dày của lịch sử - văn hóa, tạo nên truyền thông tinh thần đẹp đẽ cho Đất Nước.
Cuộc sông đời thường của mỗi người dân đã được nhà thơ nói lên một cách gợi cảm, thấm thìa:
Cuộc sông làm lụng, lo toan, dựng nhà đựng cửa, làm ra hạt gạo để nuôi sống con người: Cái kèo, cái cột thành tên - Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng để Đất Nước có từ ngày đó....
Cuộc sống tình nghĩa thương nhau bằng gừng cay muối mặn của cha mẹ.
Cuộc sống của tình yêu lứa đôi khi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Cuộc sông lưu truyền văn hóa vật chất: hạt lúa, ngọn lửa...
Cuộc sống lưu truỹền văn hóa tinh thần: giọng điệu, tên xã, tên làng,...
Bản thân những điều này đã gợi cảm, gần gũi, nhưng với cách vận dụng sáng tạo tục ngữ, ca dao, hình ảnh dân gian, những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm về cuộc sông đời thường của người dân lại càng thấm thìa, gợi nhiều suy nghĩ sâu sắc trong người đọc. Nói bằng văn hóa và văn học dân gian là cách nói dễ đi vào lòng người và nhà thơ đã thành công trong cách nói ấy.
Dề: Phân tích phần đầu chương V - Đất Nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm để làm rõ tư tưởng Đất
Nước của Nhân Dân trong đoạn trích.	
DÀN BÀI CHI TIẾT
A. Đặt vấn đề
Hiện thực cuô'i giai đoạn kháng chiến chông Mĩ - các nhà thơ hướng về chủ đề Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận bằng tư thế người trong cuộc, nói lên tâm tư của thế hệ thanh niên đô thị miền Nam qua trường ca Mặt đường khát vọng (1971).
Chương V - Đất Nước - đậm nét cảm hứng trữ tình chính luận, thể hiện ý thức hướng về cội nguồn, thức tỉnh tinh thần tham gia vào sự nghiệp chông Mĩ của tuổi trẻ đô thị miền Nam.
Vẻ đẹp Đất nước - Nhân dân được cảm nhận ở nhiều góc độ, làm sáng lên tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân của thời đại.
B. Giải quyết vấn đề:
Tổng
Đất nước trong thi ca
Là nhận thức sâu sắc và tình cảm lớn lao nhất của các nhà thơ. Mạch tư tưởng yêu nước xuyên suốt.
Trong thời đại cách mạng, cảm hứng này gắn tiếng nói của các nhà văn - công dân, khái quát sức sông - tầm vóc Đất Nước trong mối quan hệ với hiện thực chiến đấu (Đất Nước từ đau thương, vùng lên trong thơ kháng chiến chống Pháp) -> cảm hứng trữ tình - chính luận và giọng điệu sử thi. Tư tưởng bao trùm là “Đất Nước của Nhân Dân”.
Phần đầu của chương V - Đất Nước - gắn tư tưởng thời đại và được thể hiện bằng giọng điệu tâm tình “Anh - Em” thể hiện tư tưởng này một cách độc đáo, tạo được ấn tượng với những vẻ đẹp riêng.
Phân
Đất Nước hình thành từ khi nào ĩ
Mạch thơ: tự do, giàu suy tưởng, gắn quá trình phát triển Đất Nước (có trong -> bắt đầu -> lớn lèn} - mối quan hệ với cuộc sông dân tộc {ta mẹ-ị bà-> dân mình'). Cảm xúc dào dạt, ân tình, cụ thể, riêng tư.
Tư tưởng: Đất Nước gắn kết với mỗi cuộc đời từ trong quá khứ xa xăm nhưng rất cụ thể gần gũi. Đất Nước không phải khái niệm siêu hình mà có sự sông, hình hài từ cuộc sô'ng lao động, chiến đấu - là ân tình, mạch sông nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ.
Đất Nước là gì ?
Cách định nghĩa: kết hợp hài hoà vẻ đẹp riêng - chung {Đất là... - Nước là... — Đắt Nước là...).
Cảm xúc: mở ra trong chiều đài thời gian, chiều rộng không gian, chiều sâu văn hóa lịch sử. Nhận thức hòa quyện tình cảm - lí trí, tạo liên tưởng nhiều chiều.
Không khí: chất ca dao, huyền thoại, truyền thuyết, sử thi... vừa trang nghiêm, vừa cảm động.
Cấu tứ độc đáo:
+ Trong chiều sâu lịch sử - văn hóa -> lịch sử văn hiến: phong tục, tập quán, lô'i sông riêng truyền thông -> lòng tự hào nguồn cội {Chim - Rồng -> Lạc Long Quân - Âu Cơ -> giỗ Tổ).
+ Trong không gian sinh tồn cộng đồng: Truyền thông văn hiến tạo lối sông, đạo lí thủy chung - gắn bó đoàn kết các thế hệ {Những ai đã khuất -‘ì những ai bây giờ -» con cháu) -> tình cảm, tâm hồn con người hòa chung ý thức cộng đồng.
+ Trong sự sống mỗi con người: Anh và Em - thế hệ chống Mĩ suy nghĩ và cảm xúc về Đất Nước {cầm tay nhau - riêng - hài hòa nồng thắm; cầm tay mọi người - chung - vẹn tròn to lớn), hướng về tương lai {con chúng ta - tháng ngày mơ mộng).
-> tình cảm thôi thúc hành động {gắn bó — san sẻ - hóa thân), tránh thuyết giáo, dùng tiếng nói của trái tim -> nghĩa vụ thiêng liêng với Đất Nước.
Hựp
Phần đầu là cơ sở phát triển tư tưởng phần sau của chương Đất Nước; tiếng nói chính luận đi vào lòng người, hướng về chân lí “Đất Nước của Nhân Dân”.
Ý thức - tình cảm cội nguồn tạo nên cảm nhận đẹp về con người thời đại chông Mĩ, sự trưởng thành về nhận thức, tình cảm. vẻ đẹp riêng hòa vào phẩm chất chung của Nhân Dân, làm sáng lên tầm vóc và sức sông trường tồn của Đất Nước.
Kết thúc vấn đề
Hiểu về Đất Nước, mỗi người thêm trân trọng và gìn giữ giá trị thiêng liêng hình thành từ khói lửa chiến tranh.
Trong thời đại hòa bình, chúng ta tiếp tục thực hiện lời nhắn nhủ đưa Đất Nước đi xa đến những tháng ngày mơ mộng.
BÀI VIẾT GỢI Ý
Trong số các nhà thơ thế hệ chông Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm là người rất thành công với giọng thơ trữ tình - chính luận thể hiện rõ tâm tư của thế hệ trẻ đô thị miền Nam. Trường ca Mặt đường khát vọng (1971) là tiếng vọng tâm tình của một hồn thơ hòa cùng mạch cảm xúc của dân tộc đứng trước dòng thác lũ thời đại, trong đó chương V “Đất Nước” đã gói ghém trọn vẹn tâm tình của thế hệ chông Mĩ:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lèn khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc...
Giọng thơ thủ thỉ đã chuyển tải suy ngẫm của nhà thơ về Nhân Dân - Đất Nước, tiếp nốì mạch suy tưởng củạ thi ca giai đoạn trước.
Đất Nước là một chủ đề xuyên suốt bao trùm lên các tác phẩm trong giai đoạn kháng chiến chông Mĩ cứu nước. Các nhà thơ, nhà văn bằng tình cảm công dân đã có nhiều phát hiện mới mẻ độc đáo về Tổ quốc, nhân dân. Tổ quốc thường được soi chiếu từ bình diện lịch sử chông ngoại xâm, được khái quát bằng những hình tượng kì vĩ, khai thác triệt để chất sử thi hoành tráng. Trong dòng chủ lưu ấy, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn lựa cách thể hiện riêng của mình, bằng trải nghiệm tuổi trẻ, bằng nhiệt tình cách mạng và cả bằng vón tri thức được đào tạo bài bản từ mái trường xã hội chủ nghĩa, tạo nên chiều sâu của hình tượng Đất Nước, hòa mạch thơ chính luận - trữ tình.
Trả lời cho câu hỏi Đất Nước là gì ? Đất Nước từ đâu ra?, nhà thơ đã bắt đầu bằng những kí ức tuổi thơ để hình dung ra một sự tồn tại của Đất Nước trong nhận thức và tình cảm tự nhiên nhất của con người. Những vẻ đẹp được khơi lên từ mạch tâm tình, thấm đẫm hơi thở ca dao dân ca, huyền tích sử thi của dân tộc. Cái hay của phần mở đầu chương Đất Nước chính là sự xuất hiện của hàng loạt những hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng nhưng rất gần gũi:
Tóc mẹ thì búi sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng Đất Nước có từ ngày dó...
Sức gợi từ những hình ảnh đã dựng lên cả một không gian văn hóa truyền thông, mang theo hơi thở tâm tình của ca dao gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau thâm thìa tình nghĩa thủy chung. Mạch nguồn ấy tiếp tục với quá trình trưởng thành của từng cá nhân, từ thuở cắp sách đến trường đến khoảnh khắc rung động đầu đời. Tất cả đều xuất phát một cách rất tự nhiên, nôn nao ngọt ngào kỉ niệm:
Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm...
Đan xen với khoảnh khắc thời gian và không gian hiện tại là sự thức tỉnh của kí ức cộng đồng, với sự tổng hòa những vẻ đẹp trong đời sông tinh thần, tâm linh của người Việt, vẻ đẹp quê hương đất nước được tái hiện trong những lời ca dao toát lên lòng tự hào về non sông gấm vóc, về Cha Rồng Mẹ Tiên, gắn với lòng biết ơn tổ tiên đã ăn sâu vào tiềm thức từng người Việt:
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Ầu Cơ
Đẻ ra đồng bào mình trong bọc trứng...
Quá khứ, hiện tại, tương lai đã gắn kết trong một ý thức cộng đồng bền chặt, là nguồn sức mạnh và cũng là phẩm chất tâm hồn dân tộc đã được nhà thơ lí giải qua những hình tượng thơ giàu tính thẩm mĩ và hàm chứa mối quan hệ Đất Nước - con người - Nhân Dân không thể tách rời. Thời gian lịch sử, không gian văn hóa hòa quyện trong mạch thơ đầy ân tình đã phác hoạ rõ nét dần tượng đài Đất Nước. Không chỉ tiếp cận hình tượng trong huyền sử, trong hiện thực đời sống, trong mối quan hệ cá nhân - cộng đồng, Nguyễn Khoa Điềm còn dẫn dắt độc giả trở về với hiện thực trực tiếp của cuộc kháng chiến chống Mĩ, nói lên tiếng nói đầy trách nhiệm của cả một thế hệ chông Mĩ thật sự trưởng thành trong nhận thức và tình cảm:
Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước
Ý thơ thật giản dị, không hề gượng ép tình cảm, khi từ môi quan hệ riêng tư để hướng về với quan hệ cộng đồng, dân tộc. Tứ thơ độc đáo chính là từ sự mở rộng từ thế giới của anh và em hôm nay đến với mọi người, vẻ đẹp Đất Nước được phát hiện thêm với những vẻ đẹp hài hòa nồng thắm và vẹn tròn to
lớn. Đó cũng là sự kết hợp hài hòa của lí trí và tình cảm con người thời đại chông Mĩ. Hơn thế nữa, những câu thơ này còn cắt nghĩa cho vẻ đẹp tình yêu của thế hệ trẻ chông Mĩ không hề mất đi vẻ lãng mạn, khi khoảnh khắc cầm tay hiện tại đã nghĩ về thế hệ tương lai, về một ngày thanh bình và sự phát triển của Đất Nước với “tháng ngày mơ mộng". Không dừng lại ở đó, nhà thơ tiếp tục đi sâu vào mổì quan hệ Đất Nước với tâm hồn của từng con người. Giọng thơ tâm tình thấm thìa:
Em ơi em
Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời.
Nguyễn Khoa Điềm viết nên những câu thơ này bằng tất cả sự trải nghiệm của một người lăn lộn trong phong trào tranh đấu của thanh niên đô thị miền Nam. Nhà thơ đã thay mặt thế hệ mình để phát biểu tâm tư với tinh thần công dân, với nhiệt tình tuổi trẻ. Đó cũng là lời đáp cho câu hỏi mang tính chính luận về sự trường tồn của Đất Nước. Đất Nước bất tử chính nhờ ở tinh thần của những con người sẵn sàng dâng bầu máu của tuổi thanh xuân, biết sống có trách nhiệm với thời đại và đầy khát vọng về tương lai trường tồn của Đất Nước.
Phần mở đầu của chương Đất Nước được cấu tứ trên cơ sở gắn bó giữa các vẻ đẹp riêng biệt, độc đáo và giàu sức biểu cảm để làm nên vẻ đẹp chung tổng hòa thành hình tượng Đất Nước kì vĩ và giàu sức thuyết phục với bạn đọc. Nhà thơ đã trữ tình hóa vấn đề mang tính chính luận, nhằm trả lời những câu hỏi lớn mà dân tộc đang phải tìm lời đáp trong cuộc chiến đâu vì lí tưởng độc lập tự do, cuộc chiến đấu của lương tri chông lại thế lực bạo tàn.
Những vần thơ rất đẹp trong Đất Nước đã vượt qua thử thách của thời gian, tiếp tục tỏa sáng, giúp thế hệ học sinh hôm nay hiểu hơn về thế hệ cha ông trong những ngày tháng hào hùng nhất của dân tộc. Trong thời đại mới, những giá trị của ngày hôm qua góp phần khơi dậy lòng tự hào và ý thức trách nhiệm, tình cảm cho mỗi con người trong khát vọng đưa “Đất Nước đi xa đến những tháng ngày mơ mộng".
TƯ LIỆU THAM KHẢO
TÍNH CHÍNH LUẬN - TRỮ TÌNH
TRONG ĐẤT NƯỚC CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Đất Nước trích từ chương V - trường ca Mặt đường khát vọng. Tác giả chia đoạn thơ thành 5 khổ, mỗi khổ ứng với một luận điểm nhằm làm sáng tỏ tư tưởng: Đất nước này là Đất Nước Nhân dân. Nguyễn Khoa Điềm trình bày rất nghệ thuật nhiều cảm nhận, lí giải mới về đất nước. Từ đó, ta hiểu thêm tính chính luận - trữ tình của thơ ông nói riêng và thơ chóng Mĩ nói chung.
Mặt đường khát vọng có tính luận đề (chính luận). Qua cảm nhận mới về Đất Nước, với những tri thức lịch sử, địa lí, văn hoá, nhà thơ nhằm thức tỉnh tinh thần yêu nước trong thế hệ trẻ, thúc giục họ đứng về phía Nhân dân,
tham gia đấu tranh cách mạng, về phương diện nghệ thuật, cả bôn khổ đều viết theo lối quy nạp, ghi lại những luận điểm làm sáng tỏ chủ đề. Tính chính luận còn thể hiện qua giọng thơ hào hùng, kêu gọi thiết tha, hàm súc, cô đọng như những lời tục ngữ.
Tính luận đề dễ làm thơ khô khan. Nguyễn Khoa Điềm vượt qua khó khăn ấy khi đặt giữa chính luận và trữ tình một dâ'u gạch nối. Chất trữ tình bộc lộ ở cảm xúc nồng nàn, say đắm, trân trọng và tha thiết đốì với Đất Nước. Qua giọng tâm sự lứa đôi, khi thì như độc thoại, lúc lại như đang trò truyện với bạn tình, Nguyễn Khoa Điềm đã kết hợp hài hoà giữa chính luận hùng hồn và trữ tình thiết tha. Phong cách ấy thấm vào từng câu chữ của bồn khổ thơ.
Khổ thơ thứ nhất (9 câu đầu): Sau khi điểm qua hai quá trình bắt đầu và lớn lèn của đất nước, tác giả khẳng định: Đất Nước có từ ngày đó... - từ rất xa xưa. Những cái xa xưa thường hay xa lạ, nhưng đất nước thì không - đất nước gần gũi với mọi người.
Mở đầu là những lời hình dị nhưng hàm súc: Khi ta lớn lên, Đất Nước đã có rồi. Đất nước thành bậc tiền nhân. Mọi người đều được nuôi dưỡng từ đất nước... Nhắc lại điệp khúc ngày xửa ngày xưa..., tác giả muôn chứng tỏ đất nước hình thành từ rất lâu, đất nước có trong từng lời mẹ kể.
Gắn liền với sinh hoạt gia đình: “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”, tứ thơ này làm sống lại nhiều câu tục ngữ, ca dao và truyện Trầu Cau bi thương, tình nghĩa. Qua hình ảnh miếng trầu, Nguyễn Khoa Điềm “nhân dân hóa” thơ mình và có thêm một bằng chứng về Đất Nước hình thành từ xa xưa. Tuy vậy, Đất Nước chỉ lớn lên với truyền thông dân mình biết trồng tre mà đánh giặc và quá trình hình thành nhiều phong tục tập quán: Tóc mẹ thì bới sau đầu. Nguyễn Khoa Điềm thật sự xúc động khi nói đến Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Đó lời ngợi ca tình nghĩa, thuỷ chung trong gian khó. Chữ thương giúp thơ ông gần văn học bình dân. Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi - điều ấy, hiển nhiên như khi ta lớn lên đã có ông bà, cha mẹ... Đất Nước
« gắn bó, thân thiết như người ruột thịt và bao công việc lao động khác:
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đó là lúc con người khép lại thời “dã man” bước vào giai đoạn văn minh. Tứ thơ cái kèo, cái cột thành tên còn gợi tập tục đặt tên mộc mạc để mong sự bình yên. Đất nước ta gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước: Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng. Làm nên hạt gạo. trắng thơm phải trải qua nhiều công đoạn, phải đổ mồ hôi, sôi nừớc mắt. Quá trình hình thành Đất Nước cũng đau đớn như chuyên nhân loại hoài thai, sinh nở.
Từ những lời phân tích trên đây, có thể thây Nguyễn Khoa Điềm đã khai thác một cách triệt để vốn văn hoá dân gian. Hàng loạt câu tục ngữ, ca dao, truyền thuyết, cổ tích, phong tục, tập quán đã được tái tạo, sáng tạo lại. Không chỉ hay ở phương diện câu chữ, cấu trúc và lời kết đoạn đã gây được ấn tượng. Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi, Đất Nước bắt đầu, đất nước lớn lên,... chặng đường nào cũng song hành với cuộc sông nhân dân. Tác giả nêu nhiều chứng cứ để làm sáng tỏ kết luận: “Đất Nước có từ ngày đó...” - từ “ngày xửa ngày
xưa mẹ thường hay kề”. Trong suô't quá trình ấy, Đất Nước gắn bó với mọi gia đình và từng cá nhân. Đó là cơ sở vững chắc để tác giả tiếp tục triển khai tư tưởng Đất Nưởc này là Đất Nước Nhân dân ở 3 khổ thơ sau.
Khổ thơ thứ hai (33 dòng): Một định nghĩa mổi, quan niệm mới về đất nước. Đất Nước gắn liền với tình yêu lứa đôi. Trong “anh” và “em”, cũng như trong mọi người đều có một phần đất nước, cho nên:
Phải biết hóa thân cho dáng hỉnh xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời.
Tác giả tách hai âm tiết “Đất Nước” (viết hoa) để thể hiện tình, ý mới. Chỉ trong tiếng Việt và một số’ tiếng phương Đông, từ này mới gồm hai yếu tố mang nghĩa (ngôn ngữ phương Tây không thể làm như thế). Cách chiết tự thông minh đem lại cảm nhận thú vị:
Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nai em đánh rơi chiếc kliãn trong nỗi nhớ thầm...
Có 3 lần từ “Đất Nước” được tách riêng ra rồi kết hợp lại theo quy luật trên để tạo nên 3 điệp khúc với âm điệu khác nhau:
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Song song với quá trình tách - hợp nói trên, là sự hài hòa trong môi quan hệ anh - em thành ta', và Chim về, Rồng ở tạo nên môi tình Lạc Long Quân — Âu Cơ. Qua các câu thơ, tác giả cho ta thấy: đất nước bắt đầu hình thành, lớn lên như những môi tình thân thiết, yêu thương.
Trình tự nơi anh đến trường, nơi em tắm, tưởng như tình cờ mà không sao đảo ngược. Thay đổi dưới dạng: Đất là nơi em đến trường, Nước là nơi anh tắm, cảm hứng thơ sẽ tan biến. Dòng viết trên thành một câu văn xuôi bình thường.
Đất nước không phải chỉ là núi sông, rừng bể, không chỉ nâng đỡ tình yêu của anh và em, đất nước còn là nơi dân mình đoàn tụ với môi tình vĩ đại: Lạc Long Quân và Ầu Cơ đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng. Từ đó, Đất Nước thành không gian cộng đồng sinh tồn. Qua khổ thơ thứ hai, Đất Nước được cảm nhận như sự thông nhất hài hòa giữa cái hàng ngày và vĩnh hằng, trong mỗi cá nhân và toàn dân tộc, trong quá khứ, hôm nay và mai sau. Từ suy ngẫm trên, Nguyễn Khoa Điềm kết luận:
Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước
Đất Nước không xa xôi mà tồn tại trong mỗi con người. Cá nhân không tách rời Đất Nước. Vì thế, ai cũng phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ. Đoạn thơ kết lại với lời nhắn nhủ chân thành, thiết tha:
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời.
Khổ thơ thứ 3: Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” còn được thể hiện qua cách cảm nhận sâu sắc, độc đáo về phương diện địa lí. Núi Vọng Phu, hòn Trông Mái... chỉ thành thắng cảnh khi gắn liền với đời sông văn hóa dân tộc, được cảm thụ qua tâm hồn quần chúng và lịch sử đất nước, vẫn dùng lối quy nạp, từ hàng loạt hiện tượng cụ thể, nhà thơ đi đêh nhận xét khái quát:
Ổi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...
Trong không gian địa lí, trên khắp ruộng đồng gò bãi, Nguyễn Khoa Điềm đều thấy dâu tích Nhân dân để lại... Cái nhìn hai chiều trên đây thể hiện mối liên hệ mật thiết giữa nhân dần và đất nước.
Khổ 4: Tác giả cùng “em” nhìn Đất Nước theo một phương diện khác - phương diện lịch sử:
Em ơi em hãy nhìn rất xa Vào bốn nghìn năm Đất nước
Nếu ở khổ 2 và 3 là cái nhìn gần, thời hiện tại thì ở đây là cái nhìn xa, nhìn về quá khứ. Suy ngẫm về lịch sử, Nguyễn Khoa Điềm không điểm lại các triều đại “... Đinh Lý, Trần bao đời gây nền độc lập”, hoặc các anh hùng nổi tiếng với chiến công hiển hách, ông nhấn mạnh vai trò của những người trẻ tuổi vô danh. Chính họ đã giữ gìn, truyền lại cho con cháu mọi giá trị tinh thần, vật chất. Không chỉ bảo tồn hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã tên làng qua các cuộc đi xa mà họ còn quyết tâm:
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm Có nội thù thì vùng lèn đánh bại
Đỉnh cao của tính chính luận và cảm xúc trữ tình hội tụ trong câu: Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân. Chân lí ấy thể hiện đầy đủ trong ca dao. Bởi vậy, ngoài việc nhấn mạnh qua từ để, tác giả còn ìáy lại điệp khúc Đất Nước của Nhân dân - Đất Nước của ca dao thần thoại. Hai câu thơ - hai vế song song, đồng đẳng là một cách định nghĩa mới về đất nước. Tác giả chọn ba tứ ca dao để nói về truyền thông dân tộc: say đắm trong tình yêu (Yêu em từ thuở trong nôi...)-, coi trọng tình nghĩa (Quý công cầm vàng ...); thật quyết liệt trong chiến đấu (Đi trả thù mà không sợ dài lâu).
Qua đoạn thơ, ta thấy sự vận dụng sáng tạo vàn học dân gian của Nguyễn Khoa Điềm. Ông ít lặp lại nguyên văn mà thường sử dụng từng ý, từng hình ảnh thơ của người xưa. Giọng chính luận - trữ tình phù hợp với nội dung tác phẩm. Thực ra, tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” đã hình thành từ lâu. Nguyễn Khoa Điềm chỉ nâng cao tầm tư tưởng ấy và diễn đạt nó bằng ngôn từ, giọng điệu mới, độc đáo. Ông tạo được một đoạn thơ hiện đại đậm đà bản sắc dân gian. Bởi vậy, thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa quen vừa lạ và có sức thuyết phục cao.
Văn Hiến
(Báo Văn nghệ Trẻ)