Soạn bài Vợ nhặt (Kim Lân, 1955)

  • Vợ nhặt (Kim Lân, 1955) trang 1
  • Vợ nhặt (Kim Lân, 1955) trang 2
  • Vợ nhặt (Kim Lân, 1955) trang 3
  • Vợ nhặt (Kim Lân, 1955) trang 4
  • Vợ nhặt (Kim Lân, 1955) trang 5
  • Vợ nhặt (Kim Lân, 1955) trang 6
  • Vợ nhặt (Kim Lân, 1955) trang 7
  • Vợ nhặt (Kim Lân, 1955) trang 8
  • Vợ nhặt (Kim Lân, 1955) trang 9
  • Vợ nhặt (Kim Lân, 1955) trang 10
  • Vợ nhặt (Kim Lân, 1955) trang 11
  • Vợ nhặt (Kim Lân, 1955) trang 12
  • Vợ nhặt (Kim Lân, 1955) trang 13
  • Vợ nhặt (Kim Lân, 1955) trang 14
  • Vợ nhặt (Kim Lân, 1955) trang 15
  • Vợ nhặt (Kim Lân, 1955) trang 16
  • Vợ nhặt (Kim Lân, 1955) trang 17
VỢ NHẶT
Kim Lân
KIẾN THỨC Cơ BẢN
Giới thiệu
Kim Lân (1920 - 2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê Bắc Ninh.
Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc Tiểu học rồi phải đi làm: vừa làm thợ sơn guốc, khắc tranh bình phong vừa viết văn.
Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941. Tác phẩm của ông được đăng trên các báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ nhật. Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Kim Lân tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân, thể hiện không khí tiêu điều ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sông vất vả lam lũ của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Ngòi bút Kim Lân đặc biệt hấp dẫn khi viết về sinh hoạt phong phú ở thôn quê với những thú chơi lành mạnh như đánh vật, chọi gà, thả chim.., qua đó biểu hiện vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước cách mạng sông cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa.
Nám 1944, Kim Lân tham gia Hội Văn hóa cứu quốc và từ đó liên tục hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến và cách mạng (viết văn, làm báo, diễn kịch, đóng phim).
Sau Cách mạng, Kim Lân vẫn tiếp tục viết về làng quê Việt Nam và gặt hái những thành công mới ở đề tài sở trường của mình với những tập truyện ngắn: Nên vạ nên chồng (1955), Con chó xấu xí (1962)... Ông được xem là nhà văn của ruộng đồng.
Truyện ngắn Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư. Cuốn tiểu thuyết được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và sau đó bị lạc mất bản thảo trong kháng chiến chống Pháp. Sau khi hòa bình lập lại (1954), Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn “Vợ nhặt” (1955), sau này in trong tập truyện ngắn Con chó xẩu xí (1962).
Qua câu chuyện anh Tràng nhặt vợ giữa ngày đói, Kim Lân miêu tả cuộc sống khốn cùng của người nông dân trước cách mạng, qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của họ: dù trong hoàn cảnh cùng quẫn, những người nông dân vẫn khao khát yêu thương và hạnh phúc, vẫn sẵn lòng yêu thương nhau, cưu mang đùm bọc nhau.
Đọc - hiểu văn bản
Nhan đề và tình huống truyện
Kim Lân đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn. Một anh Tràng xấu xí, thô kệch, dở hơi, lại là dân ngụ cư nghèo kiết xác, bỗng nhiên
nhặt được vợ một cách đễ dàng. Đó là một tinh huống oái oăm, vừa bi vừa hài, vui buồn lẫn lộn. Tên truyện “Vợ nhạt'” kết hợp với tìrih huống “nhặt vợ” vừa tạo nên sức hấp dẫn, vừa góp phần làm nên chiều sâu tư tưởng của tác phẩm.
Nhan đề Vợ nhặt là một cái nhan đề độc đáo, hoàn toàn phù hợp với tình huống truyện - tình huống “nhặt vợ”. Kim Lân đã kết hợp hai khái niệm đối lập tưởng chừng khó có thể kết hợp được với nhau. Chuyện vợ chồng là chuyện lớn lao hệ trọng của đời người. “Nhặt” là nhặt nhạnh, là lượm được một cách tình cờ, vu vơ. Người đọc cảm thấy xót xa khi nghĩ rằng chuyện hạnh phúc của con người giữa ngày đói đã phải diễn ra một cách sơ sài, qua quýt như thế. Và con người ngày ấy bọt bèo rẻ rúng như rơm rác rơi vãi ngoài đường để có thể dễ dàng nhặt được. Vì miếng ăn mà một người đàn bà chấp nhận theo không một người đàn ông. Cuộc hôn nhân được tác hợp chỉ bằng bốh bát bánh đúc. Đêm tân hôn diễn ra trong bầu không khí lởn vởn cái chết: “mùi dot đông rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt”, “có tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”. Bữa ăn đầu tiên của ngày cưới cũng chỉ là bữa cơm thảm hại của ngày đói: “Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuôi thái Tối, và một đĩa muôi ăn với cháo”, sau đó là món chè cám “đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”...
Chuyện anh Tràng nhặt vợ khiến ai cũng phải ngạc nhiên và vui mừng
Những người dân trong xóm ngụ cư cảm thấy “lạ lắm. Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. Hình như họ cũng hiểu được đôi phần. Những khuôn mặt hóc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sông đói khát, tăm tối ấy của họ”. Có người còn “cười lên rung rúc”.
Bà cụ Tứ - mẹ Tràng - thì ngạc nhiên đến mức không hiểu nổi. Niềm vui trước hạnh phúc của con trai khiến bà “cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”.
Bản thân Tràng thì đến lúc đã đưa vợ về nhà rồi mà “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?”. Cho đến sáng hôm sau mà “hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”.
Những nỗi niềm ấy bộc lộ sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân: ngay trong hoàn cảnh khốn cùng, họ vẫn khao khát yêu thương và trân trọng hạnh phúc.
Bên cạnh niềm vui là nỗi lo. Chuyện Tràng lấy vợ giữa ngày đói khiến ai cũng phải lo lắng:
Những người dân trong xóm ngụ cư cứ băn khoăn: “Giời đất này còn rước cái của nợ đời ỵề. Biết có nuôi nổi nhau sông qua được cái thì này không ?”. Nỗi lo ấy khiến “họ cùng nín lặng”.
Bà cụ Tứ thì ngậm ngùi thương cảm: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không...”.
Ngay cả bản thân Tràng “cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đêh cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”.
Nỗi ám ảnh về cái đói đã bủa vây niềm vui hạnh phúc. Câu chuyện về hạnh phúc giữa ngày đói đặt con người trong trạng thái chông chênh giữa 82
niềm vui và nỗi buồn, giữa cay đắng chua xót và ngọt ngào. Tuy nhiên, đọng lại trong lòng người đọc vẫn là chất thơ đặc biệt của tình người lung linh tỏa sáng giữa bóng tối của hoàn cảnh.
Một tình huông truyện như thế đã làm nên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo đặc sắc của tác phẩm.
Giá trị hiện thực
Vợ nhặt là một truyện ngắn có giá trị hiện thực sâu sắc. Tác phẩm lên án bọn phát xít Nhật và thực dân Pháp tàn bạo đã đẩy nhân dân ta vào nạn đói khủng khiếp đầu năm 1945: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế”. Cái tai họa khủng khiếp trong lịch sử cướp đi gần một phần mười dân sô' Việt Nam lúc bấy giờ đã được Kim Lân tái hiện một cách chân thực và đầy sức ám ảnh.
Bao trùm cả truyện là một không khí chết chóc: “Người chết , như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.
Bên cạnh những xác người chết đói là những người sông “xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, “những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”, những đứa trẻ con “ngồi ủ rũ dưới những xó tường không hề nhúc nhích”, “những khuôn mặt hốc hác u tô'i” của người dần trong xóm ngụ cư.
Điểm vào bức tranh thảm đạm ấy là những âm thanh rợn người: “Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”.
Bức tranh ngày đói lại được miêu tả trong cái ánh sáng của “bóng chiều nhá nhem”, trên cái nền của một xóm ngụ cư tồi tàn: “hai bên dãy phô', úp súp, tô'i om, không nhà nào có ánh đèn, lửa”. Đứng là “cảnh tô'i sầm lại vì đói khát”. Cái đói đã hiện hình ra thành cái chết vây phủ, đe doạ cuộc sông con người.
Các nhân vật
Kim Lân đã xây dựng được những hình tượng nhân vật rất chân thực và sinh động, thể hiện rỡ chủ đề và làm nên giá trị nhân đạo cảm động của truyện.
Nhân vật Tràng
Kim Lân xây dựng một nhân vật Tràng với ngoại hình xoàng xĩnh, thô kệch {hai con mắt nhỏ tí, hai bên quai hàm bạnh ra, chiếc áo nâu tàng, cái đầu trọc nhẵn, thân hình to lớn vập vạp, cái lưng to rộng như lưng gấu).
Đã xấu xí lại còn dở hơi {hắn có tật vừa đi vừa nói, lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ).
Cách nói năng cũng cộc cằn {Rích bố cu, liở?... Làm đếch gì có vợ...).
Nói chung, tất cả những gì của Tràng cũng đều xoàng như chính con người Tràng, từ cái tên (cái tràng - một thứ đồ nghề của thợ mộc) cho đến ngôi nhà (một cái lều rách đứng dúm dó trên cái bãi đất lổn nhổn cỏ dại)...
Thê' nhưng Tràng là một con người có tấm lòng nhân hậu. Anh hiền lành tốt bụng nên đám trẻ con trong xóm ngụ cư hễ thấy Tràng là “ùa cả ra vây lấy, reo cười váng lên” và “đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi”. Tràng tốt bụng nên khi thấy người đàn bà tiều tụy vì đói, anh sẵn sàng cho ăn, dìrbản thân cũng chẳng dư dả gì. Có lẽ chính tấm lòng nhân hậu ấy đã đem hạnh phúc đến cho Tràng.
Hạnh phúc đến quá tình cờ khiến Tràng choáng váng. “Mới đầu anh chàng cũng chợn” nhưng ngay sau đó lại “tặc lưỡi một cái: - Chậc, kệ !”. Tấm lòng thương người, và sâu xa bên trong là niềm khao khát hạnh phúc, đã khiến Tràng dám liều lĩnh thách thức với cái đói.
Kim Lân đã diễn tả rất hay tâm lí của Tràng trước cái hạnh phúc tình cờ nhặt được.
+ Đoạn văn miêu tả cảnh Tràng đưa vợ về nhà đã thể hiện chân thực tâm trạng của một anh chàng dở hơi mà bỗng nhiên có vợ.
Niềm hạnh phúc bộc lộ rõ qua nét mặt và cử chỉ của nhân vật : “Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”; thấy bọn trẻ con chạy ra đón, “Tràng vội vàng nghiêm nét mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng” vì sợ chúng đùa dai như mọi khi; biết mọi người trong xóm đang chăm chú nhìn mình, hắn thích ý và “cái mặt cứ,vênh lên tự đắc với mình”; lúc chỉ có hai người trên quãng đường vắng, “hắn định nói với thị một câu rõ tình tứ mà chẳng biết nói thế nào. Hắn cứ lúng ta lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia đi bên cạnh người đàn bà”. Vì e thẹn, ngượng nghịu, nên cuộc đối thoại giữa Tràng và người đàn bà thật rời rạc, toàn những lời nhát gừng, cộc lốc. Hạnh phúc đến quá bất ngờ, đến nỗi hai người đi bên nhau mà vẫn chưa kịp hết xa lạ với nhau.
Xúc động nhất là đoạn văn miêu tả trực tiếp những cảm giác trong lòng Tràng : “Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sông ê chề, tăm tô'i hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bấy giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sông lưng”. Cái cảm giác mà Tràng không biết gọi là gì ấy, chính là Hạnh Phúc.
+ Cho đến sáng hôm sau, lúc hai người đã thực sự là vợ chồng rồi, Tràng vẫn còn ngỡ ngàng: “Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”.
+ Sức mạnh kì diệu của hạnh phúc đã làm thay đổi hẳn con người Tràng. Không còn cái dáng đi “ngật ngưỡng”, “từng bước mệt mỏi”, “cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước”; bây giờ đã là cái dáng đi đàng hoàng và tỉnh táo: “Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân”, và sau đó là cái dáng “xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại ngôi nhà”.
Sự thay đổi của dáng vẻ bên ngoài nói lên sự thay đổi lớn lao của tâm hồn. Nhìn cảnh người mẹ đang dọn vườn, người vợ đang quét sân, Tràng vô cùng xúc động. “Cảnh tượng ấy thật đơn giản, bình thường nhưng đốì với hắn lại rất thấm thìa cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ âm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Ngưỡi đàn ông dở hơi ấy đển lúc này đã trở nên tỉnh táo “nên người”, có ý thức sâu sắc về tình cảm và trách nhiệm gia đình, đồng thời cũng biết nghĩ đến tương lai.
Bà cụ Tứ
là một phụ nữ nông dân nghèo từng trải và nhân hậu. Kim Lân đã thể hiện rất chân thực và sâu sắc diễn biến tâm trạng của bà cụ trước hạnh phúc của đứa con trai.
Buổi chiều hôm ấy, trở về nhà thấy có một người đàn bà lạ “đứhg ngay đầu giường thằng con mình”, bà cụ hết sức ngạc nhiên. Bao nhiêu câu hỏi được đặt ra mà bà không tài nào hiểu được. Người đàn bà chào, hai lần lên tiếng chào và gọi bằng “u”, bà cụ vẫn băn khoăn : “Ô hay, thế là thế nào nhỉ ?”. Tràng nhắc lần đầu : “Kìa nhà tôi nó chào u”, bà cụ vẫn không hiểu. Bà cụ không hiểu, vì lâu nay nào dám nghĩ đến đứa con trai của mình mà lại có thể có vợ. Vả lại, ai mà dám lấy vợ giữa buổi đói khát này !
Đến khi hiểu ra, “bà lão cúi đầu nín lặng”. Trong cái “cúi đầu” ấy, ngổn ngang những nỗi niềm, “vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con- mình”. Bà cụ tủi hờn cho thân phận nghèo hèn không lo lắng được cho con. Bằng những nếm trải của một đời cơ cực, bà mẹ nghèo băn khoăn rồi đây “chúng nó có nuôi nổi nhau sông qua được cơn đói khát này không”.
Nhưng nhìn người đàn bà tiều tụy vì đói khát, bà cụ hiểu vì đâu mà người ta chịu theo không con mình. Giữa cảnh cùng quẫn, tấm lòng người mẹ bao dung và nhân hậu đã mở rộng để đón nhận “nàng dâu mới” vào gia đình mình. Thương con trai, cụ thương cả con dâu. Tình thương ấy bộc lộ trong những lời khuyên nhủ, an ủi, lời lẽ từ tôn, giản dị mà sâu sắc, chân tình. Bà cụ mừng trước hạnh phúc của con, nhưng nỗi lo và niềm thương xót làm cho “nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”.
Tuy vậy, niềm vui của người mẹ vẫn ánh lên. Sáng hôm sau, đã thấy bà “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn quét tước nhà cửa”. Hạnh phúc đã đỡ cái dáng “lọng khọng” thường ngày trở nên “xăm xắn” - nhanh nhẹn, hăng hái.
Trong bữa ăn đầu tiên của ngày cưới, cái đói lại hiện ra trong sự thảm hại của bữa cơm ngày đói. Nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này. Và “chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm hoà hợp đến thế”. Đến khi niêu cháo lõng bông đã hết nhẵn, bà cụ “nhìn hai con vui vẻ”, “lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút” rồi “vừa khuấy khuấy vừa cười”. Thật tội nghiệp, bao nhiêu cố gắng của bà cụ vẫn không thể vực niềm vui vượt khỏi sự ám ảnh của cái đói. Cái đói hiện ra thành bóng tốì trùm lên đôi mắt của người đàn bà “vợ nhặt”, hiện ra trong cái vị của “miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”.
Bà cụ Tứ không chỉ có tấm lòng người mẹ thương con mà còn có cả đức vị tha cao cả. Vượt lên tình thương con, vẻ đẹp của nhân vật bà cụ Tứ là vẻ đẹp của tình thương yêu giai cấp, sự cưu mang lẫn nhau của những người nghèo khổ. Đó là vẻ đẹp của những người lao động “áo rách lòng vàng”.
Người “vợ nhặt”
Xây dựng nhân vật này, Kim Lân muôn phơi bày sự tàn khốc của cái đói. Chỉ một thời gian ngắn giữa hai lần gặp, thị đã biến đổi đến mức Tràng không nhận ra. “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái gương mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Cái đói không chỉ tàn phá hình hài mà còn làm cho một người phụ nữ trở nên trơ trẽn đến mức đòi hỏi “có ần gì thì ăn, chả ăn giầu”, khi được mời thì “ngồi sà xuống... cắm đầu ẩn một chặp bốn bát bánh đúc”, và vì miếng ăn mà sẵn sàng theo không một người đàn ông.
Tuy nhiên, thị không phải là một con người xấu. Sự đói khổ và cuộc sống nơi đầu đường xó chợ đã biến thị thành một con người như thế. Kim Lân đã miêu tả rất hay sự chuyển biến ở người đàn bà ấy kể từ khi theo Tràng.
+ Ngay từ trên con đường về nhà, người đàn bà trước đó còn “cong cớn”, “sưng sỉa”, giờ đã trở thành người phụ nữ bình thường như bao người phụ nữ khác: “Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”, đến mức có người khen “trông chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Nhưng không phải chỉ một lúc mà có thể thay đổi -hoàn toàn, vẫn còn đó “vẻ khó chịu”, “càu nhàu câu gì trong miệng”, vẫn còn những lời lẽ cộc lốc, nhấm nhẳng...
+ Về đến nhà Tràng, thị khép nép, chỉ dám “ngồi mớm ở mép giường”; khi bà cụ Tứ về thì vội đứng dậy lễ phép chào. Suốt trong câu chuyện của bà cụ, thị vẫn không dám ngồi. Đến khi bà cụ bảo ngồi xuống, “thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”.
+ Đến sáng hôm sau, thị đã hoàn toàn thay đổi: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.
Với nhân vật người “vợ nhặt”, Kim Lân muôn thể hiện một niềm tin đầy ý nghĩa nhân văn: tình thương và mái ấm gia đình có đủ sức mạnh để cảm hóa con người.
4. Hình ảnh lá cờ đỏ xuất hiện ở cuối truyện có một ý nghĩa thật đặc sắc. Lúc ấy, không khí bữa ăn đã trở nên lặng lẽ, nặng nề. Cảnh gia đình ấm cúng, vui vẻ bị bóng đen của cái đói làm cho u ám. Tình vợ chồng, tình mẹ con đem lại ánh sáng của niềm vui và hạnh phúc giữa bóng tô'i của hoàn cảnh, nhưng vẫn chưa đủ sức đưa họ vượt thoát hẳn hoàn cảnh đầy bóng tối. Tình trạng tưởng chừng như bế tắc. Hình ảnh lá cờ đỏ của Việt Minh và đoàn người đi phá kho thóc Nhật bỗng xuất hiện trong ý nghĩ Tràng. Hình ảnh ấy mở ra một lối thoát, đem lại một niềm hi vọng, một niềm tin tưởng mới mẻ. Kim Lân muôn khẳng định rằng: chỉ có cách mạng mới có thể đem lại hạnh phúc thực sự cho con người. Và sỡ dĩ cách mạng có được sức mạnh, trước tiên và chủ yếu, là bởi cách mạng đã đáp ứng được những khao khát thiết tha và thiết thực nhất của quần chúng nhân dân.
Đặc sắc nghệ thuật
Truyện Vợ nhặt có nhiều đặc sắc về nghệ thuật.
Tình huống truyện độc đáo, làm nổi bật chủ đề tác phẩm, tâm trạng và tính cách nhân vật.
Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, có duyên.
Giọng văn mộc mạc, giản dị; ngôn ngữ gần với khẩu ngữ nhưng có sự chắt lọc, tạo nên một phong vị riêng. Ngôn ngữ đô'i thoại đúng với giọng điệu của từng nhân vật.
Ngòi bút Kim Lân điêu luyện trong nghệ thuật dựng cảnh, tạo không khí, tả người, đặc biệt là miêu tả tâm lí nhân vật. c. Tổng kết
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân không chỉ miêu tả sô' phận hi thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiểp đầu năm 1945 mà còn cho ta thấy rõ sức sống kì diệu của họ: ngay trên bờ vực thẳm của cái chết, họ vẫn hướng về sự sống, về hạnh phúc bình dị của người lao động. Nội dung nhân đạo sâu sắc đó được thể hiện thông qua một tình huống truyện độc đáo với lối kể chuyện hấp dẫn của tác giả.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề: Đọc Vợ nhặt của Kim Lân, không ai có thể quên được chi tiết nồi cháo cám trong bữa cơm đón nàng dâu mới của bà cụ Tứ. Anh (chị) hãy viết lời bình ngắn về chi tiết nghệ thuật đặc sắc này.
ĐOẠN VĂN THAM KHẢO
Nồi cháo cám có thể xem là chi tiết nghệ thuật đặc sắc khép lại truyện ngắn Vợ nhặt, nhưng dư vị của nó thì vẫn còn mãi trong lòng người đọc. Một chi tiết truyện thật đắt, vừa có giá trị hiện thực sâu sắc lại vừa có giá trị nhân đạo cao cả. Đẹp biết bao tấm lòng bà cụ Tứ, người mẹ già nghèo khổ, trong những ngày đói khát ấy, vẫn cố tạo ra những niềm vui, dù thật mong manh, cho con trai và con dâu mới. Với nồi cháo cám, bà tưởng có thể “cứu nguy” cho bữa cơm ngày đói. Và những câu nói đon đả, với nét cười rạng rỡ khi bà múc cháo cho con đã nói lên tất cả tấm lòng chân thật, đôn hậu, vị tha của người mẹ. Nhưng sự thật vẫn hết sức khắc nghiệt. Tưởng “cứu nguy” được, không ngờ chính cái nồi cháo cám ấy lại làm cho bữa cơm đón “nàng dâu mới” càng trở nên tội nghiệp: họ ăn mà không dám nhìn mặt nhau trong một nỗi tủi hờn thấm thìa. Phải chăng đó là âm hưởng của “hạnh phúc vợ nhặt”, và có phải chính cái phút giây tội nghiệp đó lại càng làm nổi rõ hơn tấm lòng thương người cao quý của bà mẹ nghèo khổ ấy ?
Đề: Kim Lân đã miêu tả tâm trạng của Tràng khi dẫn người vự mới về qua xóm ngụ CƯ:
“Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tô'i hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bấy giờ chỉ còn tinh nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”.
Phân tích đoạn văn trên, nêu rõ ý nghĩa nhân văn sâu sắc và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế của tác giả.
GỢI Ý
Ý nghĩa nhân vãn sâu sắc của đoạn văn
Phát hiện và miêu tả một cách gợi cảm những biểu hiện tâm trạng của một con người lần đầu tiên biết đến hạnh phúc của tổ ấm gia đình trên cả hai mặt: có thể quên đi cuộc sông đói khát, tốì tăm đang diễn ra trước mắt đồng thời nảy sinh những cảm giác thật mới lạ, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy.
Đó là tình cảm nhân bản, thiêng liêng của con người (tình vợ chồng, tổ ấm gia đình) mà ai cũng có, cũng khát khao, và ở đây Kim Lân đã diễn tả thật cảm động, nhằm khẳng định và ca ngợi một nét đẹp nhân văn của con người.
Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả ở đây đã đạt đến chỗ tinh tế: khắc họa tâm trạng nhân vật bằng ý nghĩ nội tâm, bằng tình cảm thực, và nhất là bằng những cảm giác mới lạ lần đầu tiên nảy snh ở nhân vật: “Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”. Một câu văn đủ rõ Kim Lân đã hiểu sâu sắc nhân vật/đã nhập thân vào nhân vật để miêu tả thành công cái tâm trạng đặc biệt ấy.
Đề: Phân tích tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân để làm sáng tỏ tư tưởng đã được ông phát biểu: “Bô'i cảnh của truyện là khi cái đói hoành hành khắp nơi. Nhưng các nhân vật của truyện thì đứng ở ngưỡng cửa của cái đói. Nơi ngưỡng cửa khôn khổ đó họ sẽ chứng tỏ số phận và tính cách của mình, đồng thời ở nơi đó họ sẽ bắt đầu một niềm tin mới, một niềm hạnh phúc mới, dù là rất mong manh” (“Nhà
văn nói vể tác phẩm”, NXB Giáo dục, năm 2000).	
BÀI VIẾT GỢI Ý
Kim Lân là nhà văn có biệt tài viết về nông dân và cuộc sôhg nông thôn. Ngòi bút của ông luôn thể hiện một tấm lòng thuần hậu, quan tâm sâu sắc đến sô' phận con người. Ngay từ khi Gách mạng tháng Tám thành công, ông đã viết tiểu thuyết Xóm ngụ cư, qua suốt những năm kháng chiến chông Pháp, bản thảo thất lạc, ông đã dựa vào cô't truyện này viết thành truyện ngắn Vợ nhặt, một tác phẩm chứa chan tình người và niềm tin con người vượt lên những bất hạnh ngay trên nền hiện thực nạn đói Ât Dậu do phát xít Nhật gây ra cho dân tộc. Nhà văn đã phát biểu về truyện ngắn xuất sắc này của mình: “Bôi cảnh của truyện là khi cái đói hoành hành khắp nơi. Nhưng các nhân vật của truyện thì đứng ở ngưỡng cửa của cái đói. Nơi ngưỡng cửa khôn khổ đó họ sẽ chứng tỏ số phận và tính cách của minh, đồng thời ở nơi đó họ sẽ bắt đầu một niềm tin mới, một niềm hạnh phúc mới, dù là rất mong manh” (Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Giáo dục, năm 2000). Qua tìm hiểu số’ phân các nhân vật Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ và tình huống đặc sắc của truyện, ta sẽ hiểu rõ hơn ý đồ sáng tác của nhà vàn.
Không khí ngày đói và bối cảnh nhặt vợ
Cái đói hiện hình cụ thể trên nền không gian ảm đạm đầy ám ảnh của cái chết rình rập cuộc sông những người dân ở xóm ngụ cư. Không gian tối sầm vì đói khát được mô tả đầy ấn tượng: quạ bay, thây người chết còng queo, người sôhg dật dờ, lặng lẽ như bóng ma. Cái đói hiện hình trên gương mặt một anh chàng vô tâm như Tràng, làm thay đổi diện mạo và thói quen cố hữu, đè nặng lên đôi vai, cái lưng gấu, dập tắt nụ cười tủm tỉm. Ngay cả những đứa trẻ cũng ủ rũ. Bầu không gian dự báo tai ương ập đêh bất kì lúc nào. Ây là những ngày đói At Dậu khiến những người đã qua năm 2000 nhắc lại vẫn rùng mình (Nam Cao).
Sự kiện tương phản với hiện thực là buổi chiều Tràng về làng cùng người đàn bà lạ mặt. Điều không bình thường hiện ra trên khuôn mặt phán phở khác thường và nụ cười tủm tỉm trở lại trên môi Tràng. Điều khác lạ trong thái độ của Tràng thay đổi với đám trẻ con vốn quen suồng sã với anh ta. Sự kiện tạo ra sự tò mò ngạc nhiên từ trẻ con đến người lớn. Niềm vui nho nhỏ lóe lên trong cuộc sông tăm.tốì đói khát nghèo khổ nhanh chóng bị nỗi lo thường trực về cái đói và cái chết lấn át. Kim Lân đã đem đến cho người đọc cảm giác ái ngại, xót xa cho sự trớ trêu của số phận người nghèo trước thực tại khủng khiếp. Hạnh phúc thành hình trên nền cuộc sống tột cùng bi kịch, khi sự sống bị dồn vào ngõ cụt không lối thoát. Con đường duyên phận thành con đường rước thêm “cái của nợ đời” khiến những người biết nghĩ đều phải thở dài ái ngại. Bóng tốì mở ra mênh mông, mùi gây của xác người, tiếng quạ vẫn gào lên thê thiết. Nỗi bất hạnh dường như đang chờ ở phía trước.
Con đường về nhà Tràng - sự thay đổi trong tâm lí nhân vật
Sự thật quá lớn lao vượt quá suy nghĩ mơ ước thường nhật của anh Tràng nghèo khổ, xấu xí khiến Tràng không nhận biết hoàn cảnh giống mọi người. Choán ngợp tâm trí Tràng lúc này là hạnh phúc của riêng anh. Kim Lân đã khắc họa những chi tiết thật sống động về một gã trai được vợ thích ý, cái mặt cú vênh vênh tự đắc với mình. Cũng là tiếng càu nhàu nhưng khác hẳn với cái càu nhàu của người đàn bà cảm thấy sự hẩm hiu của thân phận, Tràng tỏ ra bối rối thật sự trước hạnh phúc đang được tận hưởng. Mọi cử chỉ thật buồn cười: lật đật, nhìn ngang nhìn ngửa, như người xấu hổ chạy trốn. Kim Lân đã lồng vào giữa cảnh đói khát những tiếng cười hóm hỉnh về một anh chàng có vợ để xua dần không khí đượm màu tang tóc ra khỏi hạnh phúc giữa hai người.
Ngay sau đó, một không gian đượm chất trữ tình đã hiện lên trên “con đường sâu thăm thẳm, luồn giữa hai bờ tre cao vút”. Chỉ còn “tiếng gió trên bờ tre rì rào và tiếng lá khô kêu sào sạo dưới bàn chân”. Đó là không gian dành cho những đôi lứa tâm tình. Nhưng Kim Lân hoàn toàn không có ý định thi vị hoá câu chuyện, bởi từ suy nghĩ đến lời nói, hành động của các nhân vật vẫn chập chờn những nỗi lo thường trực.
Chỉ trong một lúc ngắn ngủi nhưng nhà văn đã lí giải được sự thay đổi lớn lao trong tâm hồn Tràng, tạo mối dây ràng buộc hai con người khốn khổ lại với nhau. Dẫu chỉ là cảm nhận mơ hồ nhưng với Tràng, khoảnh khắc ấy vô cùng thiêng liêng. Hạnh phúc tủm tỉm cười cùng anh, giúp anh “quên hết những cảnh sống ê chề, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt”. Rõ ràng, đô'i với Tràng hạnh phúc không còn là sự vô tình ngẫu nhiên nữa. Nó giúp anh tự tin hơn, tự chủ được tình cảm của mình. Thiêng liêng thay phút ấy hai chữ tình nghĩa, như dự báo khả năng của con người từng bước vượt qua hoàn cảnh, tiếp sức cho con người vượt lên định mệnh nghiệt ngã và tạo ra mối đồng cảm đầu tiên cho những người trước đó còn xa lạ.
Hạnh phúc có thể được cảm nhận rõ qua ngôn ngữ đối thoại và tiếng cười của những người trong cuộc. Câu chuyện giữa hai người mang theo không khí chờ đợi hạnh phúc đang đến, rất bình dân nhưng đã kéo hai con người khôn khổ xích lại gần nhau. Thật ngỡ ngàng khi đến lúc này thị mới quan tâm đến gia cảnh của Tràng, vẻ ngờ nghệch của anh trai quê đã làm nên nụ cười tủm tỉm của người đàn bà. Kim Lân quả thật đã dụng công mô tả tiếng cười của từng nhân vật. Từ nụ cười tủm tỉm thường nhật của Tràng đêh nụ cười tủm tỉm của thị đã có một ý nghĩa khác nhau. Để rồi niềm vui nhân lên, lan tỏa làm thành khoảnh khắc bật cười của Tràng khi ngộ ra bản thân, rồi cả âm vang hì hì... ý nhị và hài hước, cuối cùng bùng lên thành khoảnh khắc hắn thích chí ngửa cổ cười khanh khách rồi phỉ ra cười làm hiện rõ một anh Tràng đang ngập tràn vui sướng. Đó cũng là lúc họ nói với nhau bằng ngôn ngữ của vợ chồng, rất quê mùa nhưng cũng rất đáng yêu.
Nhưng con đường - hạnh phúc ấy thật ngắn ngủi khi họ chạm vào cái cổng nhà Tràng, bước vào cái nhà vắng teo rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Sự thực nghèo khó phơi bày trần trụi khiến hạnh phúc bỗng trở nên chơi vơi. Tràng chỉ biết cười cười khỏa lấp nhưng nỗi thất vọng đã hiện rõ, khi “thị nhếch mép cười nhạt nhẽo”. Đến lúc này, thực tại buộc con người phải đối diện với nó, khiến con người không dám' tự tin chính mình để làm nên hạnh phúc. Ranh giới hạnh phúc — bất hạnh thật mong manh khi mọi cử chỉ, tâm trạng của thị như nói lên tất cả nỗi tủi hổ, đắng cay của một kiếp đàn bà khôn khổ: “ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”. Không ai báo trước được điều gì sẽ xảy đến trong mốì quan hệ của hai con người đói khổ ấy. May mắn thay, giữa lúc đang tây ngây, sờ sợ, lấm lét, loanh quanh Tối bời ấy, Tràng vẫn còn tủm tỉm cười được. Dẫu sao anh cũng đã có những phút giây để được sông trong hạnh phúc. Dẫu cho hạnh phúc ấy đang có nguy cơ tuột khỏi tầm tay như một trò đùa của số’ phận, Tràng vẫn còn cảm giác được một cách đầy đủ về ý nghĩa thiêng liêng của bước ngoặt đời mình: “Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?”. Khi ý thức được nhen lên, chắc chắn con người có đủ dũng khí để vượt lên hoàn cảnh, không để hạnh phúc vuột khỏi tầm tay.
Người vợ nhặt
Người đàn bà mà số phận đã xô đẩy để đến với Tràng không phải là nàng tiên hạnh phúc. Câu chuyện được kể lại về cuộc gặp gỡ giữa họ quả thật là một chuyện cười ra nước mắt. Hai lần gặp gỡ, duyên phận buộc ràng. Kim Lân đã tạo nên những ấn tượng thật khó quên về thị - một kẻ không tên, không tuổi, không nhà, không lai lịch - như một nạn nhân cùng cực đáng thương của cái đói và miếng ăn.
Không ít nhà văn đã từng viết về cái đói và miếng án trong cuộc sôhg người dân cùng trước cách mạng tháng Tám. Ngô Tất Tô" đã để nước mắt chị Dậu rơi lã chã khi chứng kiến con mình phải ăn cơm chó (Tắt đèn). Nam Cao khiến ta phải rùng mình kinh sợ sức hủy diệt của cái đói -• miếng ăn với nhân tính trong bao truyện ngắn đầy nước mắt xót thương của ông (Lão Hạc, Một bữa no). Kim Lân trở về với đề tài hiện thực cũ, đã dựng nên một tình huống bi hài có một không hai: bốn bát bánh đúc nên duyên vợ chồng.
Để kiếm miếng ãn, thị dường như đã đánh mất tất cả sự dịu dàng kín đáo thùy nụ của người phụ nữ. Ngay từ lúc xuất hiện đầu tiên, thị đã nhảy xổ vào Tràng với tất cả vẻ cong cớn, ton ton và ỡm ờ liếc mắt, cười tít với gã trai xa lạ. Kim Lân khiến ta hình dung cụ thể hoá cảnh trai tứ chiếng, gái giang hồ gặp nhau. Lần thứ hai, thị xuất hiện với bộ dạng thật thê thảm và cung cách thật khó ưa. Cái đói ghi dấu ấn trên “áo quần rách tả tơi như tổ đỉa”, dáng vóc “gày sọp đi” và “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Đáng sợ hơn, nó không chỉ biến đổi nhân dạng mà còn lấy mất của thị lòng tự trọng, tính sĩ diện cần thiết ở một con người. Nó làm cho thị trong lời nói “sưng sỉa, cong cớn” qua lời 'nói “đon đả” chẳng còn một tư cách người nào. Tràng thành chiếc phao cứu sinh để thị được ăn. Bởi ăn là sống, không ăn là chết. Ranh giới sự sống - cái chết đã không cho thị quyền chọn lựa. Thị trở thành hiện thân của con người bản năng.
Còn gì chua chát hơn sau lúc “cắm đầu ăn một chặp bôn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”, lại sẵn sàng theo không kẻ cho ăn về làm vợ, chi tiết ấy khiến người đọc thương hại thay cho chị. Nhân phẩm đã mất, dường như thị đã biến thành nô lệ của miếng ăn, bởi sau bữa ăn vội vàng thó tục ấy thị còn tiếp tục cùng Tràng “ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê”. Ay vậý mà tuyệt nhiên nhà văn không để bộc lộ một mảy may thái độ phản ứng nào của Tràng trước những việc làm đáng khinh của thị, nên đọng lại trong ta một cái nhìn đầy thương hại cho thị mà thôi. Phải đến khi xuất hiện trong xóm ngụ cư, thị mới hiện lên với đầy đủ tâm trạng, mặc cảm về thân phận vợ nhặt. Số phận của thị đã ngoặt sang ngõ rẽ mới sau tiếng tặc lưỡi Chặc, kệ của Tràng. Nhưng cuộc sống tương lai quá mơ hồ với thị. Trái ngược với Tràng, thị bước đi trong dáng đầu hơi cúi xuống, rón rén, e thẹn, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Bởi thị sợ những ánh mắt tò mò sẽ phơi ra sự. thật phũ phàng về thân phận vợ nhặt. Đến lúc chĩ còn hai người với nhau, thị cũng không giấu nổi ánh nhìn tư lự. Ám ảnh thân phận thực sự rõ nét khi thị đã ở trong nhà Tràng, khi đứng trước một hiện thực đáng thất vọng. Kim Lân đã đặc tả vào thái độ của thị như gợi tả bao suy tư sâu sắc về kiếp người trong những ngày đói quay quắt. Cái nghèo gặp cái eo, báo cho họ biết những ngày túng đói đe đọa. Nếu vấh đề của Tràng quẩn quanh trong mong ước tạo nên hạnh phúc bền lâu thì vấn đề của thị lúc này là vượt lên nạn đói. Không có bất cứ một tín hiệu nào bảo đảm cả hai người sẽ vượt qua thử thách của chính mình. Sự chờ đợi thật nặng nề, căng thẳng. Thị đã dễ dàng đến với Tràng thì thị cũng dễ dàng bỏ đi. Nhà van đã kéo dài khoảnh khắc ấy để giúp người đọc hình dung, giả định những khả năng sẽ xảy đến cho nhân vật, để có những suy ngẫm cảm thông, ngậm ngùi cho thân phận con người trong hoàn cảnh trớ trêu.
Cuộc gặp gổ của ba người khôn khổ
Bà cụ Tứ trở về nhà như bổ sung thêm vào bức tranh ảm đạm của cuộc sông nghèo khổ, đói kém. vẻ lam lũ in hình trên dáng đi lòng kliòng, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán. Trong những lo toan của người mẹ, hẳn sẽ không có dự tính nào cho hạnh phúc của con trai trong thời điểm cùng cực đói này. Bởi vậy thái độ của Tràng làm bà ngạc nhiên một thì sự xuất hiện của người đàn bà lạ làm bà ngạc nhiên mười. Sự thực như một ảo ảnh để bà không thể hiểu nổi. Dầu đã có lời chào nhưng lại làm bà rối bời băn khoăn. Vì hơn ai hết bà hiểu cảnh nhà, hiểu hoàn cảnh con mình không mong có được vợ trọng cả lúc yên hàn chứ chưa cần nói đến tao đoạn trần ai này. Nhà văn đã dồn bút lực mô tả phút chờ đợi căng thẳng của đôi vợ chồng mới làm bạn với nhau để người mẹ định đoạt duyên kiếp. Thời gian như kéo dài thêm cùng tâm lí đợi chờ. Lại càng dài hơn khi bà cụ cúi đầu nín lặng sau khi hiểu ra cớ sự.
Những trang viết xúc động nhất của tác phẩm có lẽ gắn trọn với tâm trạng mừng lo lẫn lộn của bà cụ Tứ. Tấm lòng của một người mẹ thật bao dung và cũng thật đắng cay xa xót. Người đọc có thể nhìn thấy bóng dáng bao bà mẹ thương con đứt ruột trong nỗi lòng bà cụ Tứ. Những xung đột bi kịch được đẩy lên cao trào nhưng cũng được hóa giải phần nào bởi tình thương của người mẹ. Nước mắt mẹ đã lặng lẽ rơi xuống trong mặc cảm thân phận, trong nỗi đau không lo nổi hạnh phúc cho con mình. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho sô' kiếp đứa con mình. Không khí im lặng u uất bao trùm lên ngôi nhà, tâm tư bà cụ cũng ngập tràn ám ảnh đầy bóng tối: cái đói, cái chết, cái nợ đèo bòng chất thêm gánh nặng. Định mệnh như cười cợt với hạnh phúc, nụ cười của thần chết. Nhưng không thể thắng được một niềm tin của những người chưa tắt hi vọng về tương lai. Nó là cái tâm lí quen thuộc của những người nghèo khổ, thường tự an ủi mình:
Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lồng mọc, còn chồi lên cây
Tiếng nói đòi quyền sông mãnh liệt ây đã thôi thúc làm nên quyết định rất “nhẹ nhàng" trong lời nói của bà cụ Tứ “ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...”. Hạnh phúc đã vượt qua lực cản đầu tiên.
Nhưng cuộc sông thực không hề nhẹ nhàng, vẫn bộn bề chồng chất nỗi lo. Bản thân bà cụ cũng nén chịu vào lòng nỗi đau của riêng mình, đặt vào miệng những lời an ủi nàng dâu mới nhưng bóĩig tối trùm lẩy hai con mắt bà lão. Trong khoảnh khắc, quá khứ tủi cực dồn về cùng suy nghĩ cho tương lai dâu - con. Điều cảm động là tình thương ấy đã xóa nhoà khoảng cách “mẹ chồng nàng dâu” nhưng cách cư xử của bà cụ Tứ vẫn còn là sự chịu đựng, chấp nhận hoàn cảnh, chưa phải là sức mạnh để vượt lên hoàn. cảnh. Mỗi một lời thân mật với “nàng dâu mới’’ chứa đựng bao nỗi niềm u uất để rồi “bà cụ không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng’. Bóng tôi vẫn mênh mông.
' Kim Lân đã để vào chính lúc ấy, Tràng đánh diêm đốt đèn. Chính nhà văn đã nói về ngọn đèn xua tan bóng tối này: Ngọn đèn là niềm yêu thương, cảm thông lẫn nhau để cùng vượt lên trên số phận buồn thương của họ (Tác giả nói về tác phẩm). Đó là ánh sáng của hi vọng, của quyết tâm tạo dựng cuộc sống mới. Một lần nữa, Kim Lân lại để cho đôi vợ chồng mới còn lại riêng với nhau, trong ánh đèn vàng đục ở góc nhà tỏa ra ấm áp và kéo dài hai cái bóng trên vách. Nhưng lần này, không chỉ có tiếng họ thầm thì trò chuyện mà còn cả tiếng hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ. Hạnh phúc mới phải đôì mặt với thực tại cuộc sông những ngày tới của lứa đôi và đêm tân hôn ấm áp tình người đã chống chọi với tiếng hờ khóc tỉ tê nghe càng rõ. Đó là hạnh phúc đòi hỏi con người phải sát lại bên nhau để vượt qua buồn thương số phận, cái đói và cái chết.
Ngày mới
Ánh nắng buổi sáng mùa hè đến với Tràng sau đêm tân hôn màu nhiệm đã giúp anh nhận ra tất cả sự thay đổi mới mẻ, khác lạ. Dù ở trong trạng thái êm ái lửng lơ như người vừa ờ trong giấc mơ đi ra nhưng bước ngoặt cuộc sông của Tràng là sự thực mà chính anh là người hiểu rõ nhất. Đẹp làm sao những cảm xúc của 'Tràng về tổ ấm của chính anh, gắn với viễn cảnh tương lai sáng sủa như không gian đầy nắng kia. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng, nguồn hạnh phúc tạo nên từ môi ràng buộc tình cảm và trách nhiệm của Tràng với mẹ, với vợ đã đem lại nguồn hạnh phúc lớn lao hơn cho Tràng. Anh ý thức rõ hơn bao giờ hết quyền được sông làm người, quyền sông của con người. Chính anh chứ không phải ai khác sẽ bảo vệ đến cùng quyền lợi chính đáng ấy.
Ngày mới đến với thị cũng thật khác lạ, làm nên vẻ đẹp của một cô Tấm bước ra từ quả thị trong cổ tích. Hạnh phúc mới đã trả lại cho chị vẻ hiển hậu đúng mực và chính bàn tay từng đẩy chiếc xe bò duyên phận, bàn tay quệt đũa ngang miệng hôm qua, hôm nay đã sắp đặt, sửa sang nhà cửa gọn gàng sạch sẽ. Bàn tay ấy đang quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Âm vang giản dị, bình thường ấy báo hiệu sự hồi sinh, sức sống mới trở lại trong tâm hồn chị. Tưởng chừng mọi nỗi lo đã được giải tỏa khi ngày mới bắt đầu, ngay cả “bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”.
Nhưng hình ảnh “bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại” đã cho ta biết tất cả mới chỉ bắt đầu. Cuộc sống mới của gia đình Tràng diễn ra trên nền hiện thực còn nguyên môĩ đe dọa. Lùm rau chuôi thái rối, đĩa muô'i ăn với cháo, câu chuyện giữa mẹ, con và dâu toàn niềm vui. Không khí đầm ấm hoà hợp bỗng ngừng lại khi miếng ăn hết nhẵn. Khoảnh khắc ấy khiến người đọc có thể chạnh lòng nhớ không khí truyện Nửa đèm của Nam Cao. Cũng vui vẻ đầm ấm ban đầu, sau hạnh phúc vỡ tan, để lại cay đắng, cùng cực cho một bà lão suốt đời “tu nhân tích đức”. Liệu bà cụ Tứ, Tràng, thị có lâm vào nghịch cảnh đầy bi kịch như vậy không ? Kim Lân đã để các nhân vật chông chọi hoàn cảnh ấy mỗi người một cách, tranh đấu quyết liệt với cái đói chết người để bảo vệ quyền sông, hạnh phúc họ vừa có được. Người đọc sẽ lặng đi khi nhìn vào miếng ăn của họ - “chè khoán” của bà cụ Tứ. Người mẹ tội nghiệp ấy đã làm mọi việc có thể để cứu vãn tình thế, ngay cả khi nói rõ là cám vẫn cô' đánh lừa cảm giác bằng tiếng cười rặn ra và lời khen ngon đáo để. Người vợ nhặt đã nhận ra sự thực, dẫu hai mắt thị tối lại nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng. Thị thật đáng thương vì cuộc đời chị cũng sẽ không còn lôi thoát nào khác. Tình người thật đáng quý để chị chấp nhận hoàn cảnh ăn miếng ăn của loài vật này. Chỉ có Tràng cảm nhận rõ nhất vị cám đắng chát và nghẹn bứ. Dường như khoảnh khắc ấy đã bùng lên sức mạnh phản kháng trong anh. Nhưng bị bủa vây trong vòng cùng quẫn, những con người ấy đã bắt đầu tránh nhìn mặt nhau, một nỗi tủi hờn len vào tâm trí ríìọi người. Sức mạnh tô' cáo tội ác hủy diệt sự sông của kẻ thù Pháp - Nhật trong câu văn thật thấm thìa trong phút câm lặng đột ngột này. Nhung có thể nhận ra lúc ý thức rõ nhất về hoàn cảnh cuộc sông bên ngoài tác động, họ tránh nhìn nhau không phải vì sợ hãi, cũng không phải chuẩn bị cho ánh mắt nhìn nhau đầy thù hận mà tủi hờn chất chứa trong lòng sẽ giúp họ cùng nhìn về một hướng giải thoát khỏi cuộc sông lầm than, hướng đến sự sông, tương lai sẽ khác hơn.
Kim Lân dựng lên đoạn cuối câu chuyên khi những người cùng khổ này nói về Việt Minh và hình ảnh đoàn người đói cùng lá cờ đỏ bay phấp phới hiện lên trong óc Tràng, bởi điều kiện khách quan tác phẩm hoàn thành sau cuộc cách mạng long trời lở đất của dân tộc lật nhào bộ máy hủy diệt của kẻ thù dân tộc, trả lại hạnh phúc tự do thật sự cho con người. Một kết cục. làm rõ tư tưởng của tác phẩm là cần thiết để câu chuyện thoát khỏi lô'i mòn bi kịch của văn học hiện thực trước cách mạng viết về những nạn nhân đáng thương bị đè bẹp bởi hoán cảnh. Nhưng theo sự phát triển của tình huông truyện, dẫu kết cục là nỗi tủi hờn vẫn hàm chứa trong đó sức mạnh phản kháng của những con người từng bước ý thức và làm chủ hoàn cảnh, vượt lên sô' phận, đó cũng chính là điểm khác biệt về nhân vật điển hình trong văn học sau 1945 với văn học trước đó.
Kim Lân đã ghi dấu ấn của một tâm lòng nhân hậu, đem đến những cảm nhận mới mẻ về con người và khơi dậy sức mạnh tình thương giúp con người vượt qua tất cả trở lực của cuộc sông và bản thân họ. Tác phẩm ấm lòng ta bởi niềm tin vào con người tuyệt đô'i.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
Nhà văn Kim Lân nói về truyện ngắn Vợ nhặt
Dịch đói năm 1944 - 1945 thật khủng khiếp. Nhiều gia đình vừa có người chết đói, vừa có người bỏ đi, dần dần mất hẳn. Tôi tận mắt thấy người chết nằm rải rác khắp nơi, khi con người bị đầy đến bờ vực cuối cùng của cuộc sôhg thì toàn bộ sô' phận và tính cách con người họ sẽ biểu lộ ra. Chết đói là một thực tế khô'c liệt. Đó là cái chết từ từ, hao mòn dần, quằn quại dần. Tôi được biết nhiều chuyện qua năm tháng đó. Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át được sức sông đơn sơ của tâm hồn họ.
Nó vừa đắng cay, vừa đau đớn, đồng thời một mặt nào đó lại loé lên những tia sáng về về đạo đức, danh dự.
Truyện Vợ nhặt khai thác khía cạnh sau cùng của cái bi kịch ấy.
Ban đầu tôi viết một chuyện dài có tên là Xóm ngụ cư. Tôi viết đến chương thứ V thì dừng lại. Sau khi hoà bình lập lại, tôi và Nguyên Hồng làm tờ báo Văn. Trong bản thảo xóm ngụ cư có một đoạn luôn ám ảnh tôi là đoạn viết về những người đói, về những buổi sáng ở vùng quê người ta phải nhặt xác người đi chôn. Tôi viết lại chương đó thành truyện ngắn Vợ nhặt mà không đọc lại bản thảo cũ. Chuyện Vợ nhặt hoàn toàn không có thực mà do tôi sáng tạo ra, không thể có một bà mẹ như thế, một cô con dâu như thế trong đời sống thực. Tôi muôn phần tích tâm trạng và thân phận của con người trong cái hoàn cảnh cùng đường ấy, nơi cuộc sống dường như không còn Ịpì thoát.
Tôi muốn hướng họ vào sự sống, sự thương yêu nhau, không phải là sự giành giật nhau. Hoàn cảnh đặc biệt quá nên câu chuyện là lạ đó lại được hiện ra với vẻ chân thật.
Bối cảnh của truyện là khi cái đói hoành hành khắp nơi. Nhưng các nhân vật của truyện thì đứng ở ngưỡng cửa của cái đói. Nơi ngưỡng cửa khôn khổ đó, họ sẽ chứng tỏ sô' phận và tính cách của mình, đồng thời ở nơi đó họ sẽ bắt đầu một niềm tin mới, một niềm hạnh phúc mới, dù là rất mong manh.
Tràng là anh chàng kéo xe bò thuê, công việc bấp bênh. Trong thời buổi bây giờ, hẳn Tràng chẳng dám nghĩ đến chuyện lấy vợ, vì thủ tục cưới cheo hồi đó rườm rà, tôn kém lắm. Vậy mà tự dưng anh Tràng lại nhặt được vợ. Sự kiện nhặt vợ quá buồn cười. Chỉ một câu đùa, ai cũng biết là đùa, vậy mà cô kia cũng theo. Điều đó chứng tỏ cô ta cùng đường và sẵn sàng xông vào, bấu víu vào bất cứ cái gì có thể bấu víu được. Còn Tràng, tại sao lại dẫn cô ta về ? Vì Tràng là một người nông cạn, không biết tính toán như người khác, cũng không ý thức được về hoàn cảnh của mình. Anh ta chỉ tặc lưỡi, theo đúng cách của một người hay ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch.
Đến lúc về tới xóm, trước ánh mắt, thái độ của dân xóm. Tràng mới kịp nhận ra sự thay đổi trong cuộc sông của mình. Anh ta chỉ cảm thấy sự thay đổi, còn ý nghĩ của nó như thê' nào thì anh ta chưa thể hiểu.
Trước kia, chiều nào Tràng cũng đi về qua xóm, nhưng hình ảnh đơn độc của Tràng không gây ra bất kỳ một xao động nào trong đời sông của cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy. Sự biến đổi chốc lát như thể phụ thuộc vào hình ảnh một người đàn bà bên Tràng.
Mọi người bàn tán và cũng đã phán đoán ra được câu chuyện của Tràng. Họ đoán được bằng chính hoàn cảnh của họ. Việc lấy vự lấy chồng luôn là niềm vui và quan trọng, nó chuẩn bị cho một cuộc sống khác, cuộc sống tương lai của đứa con. Nhìn Tràng và người đàn bà bất chợt họ cũng mơ hồ đến tương lai của chính họ, Tràng đã khiến họ tin vào cuộc sông thêm một chút. Nếu họ ý thức được những niềm vui của mình trong giây lát đó, họ sẽ nghĩ rằng "Đó, anh ta không những còn sống mà còn nuôi thêm được một người nữa trong hoàn cảnh này". Nhưng niềm vui trôi qua rất nhanh. Một tiếng ôi chao và lời than thở đưa họ về thực tại cuộc sống đói khát, cùng quẫn họ nín lặng.
Người Việt rất coi trọng tình nghĩa, tuy nhiên để có tình nghĩa người ta cần phải có thời gian để thấu hiểu nhau. Đặt trong hoàn cảnh khôn khó lúc bấy giờ, khi mọi người cần đến sự giúp đỡ nhiều hơn của người khác cả về vật chất lẫn tinh thần, thì Tràng là cái phao cuô'i cùng, là tất cả hy vọng của người đàn bà. Vậy cái nghĩa của Tràng là sự gắn kết giữa con người với con người trong một hoàn cảnh cấp bách. Hơn nữa đó còn là "nghĩa" của một người đàn ông nghèo không đủ khả năng lấy vợ bỗng dưng được một người đàn bà "ưng thuận về không" làm vợ. Và khi cảm thây có "tình nghĩa" với người đàn bà thì sự đốì diện của Tràng với chị ta không còn đáng sợ nữa.
[...] Chúng ta nên hiểu tâm trạng của bà mẹ. Bà cụ Tứ ngay khi về đến nhà đã bị ngạc nhiên vì sự vui vẻ và chờ đợi nóng cả ruột của con trai mình. Bà càng ngạc nhiên khi có người đàn bà lạ trong nhà mình mà lại đứng ở đầu giường thằng con. Người đó lại chào bà bằng u. Cái cảnh đó chưa được giải thích đến nỗi bà cụ tưởng nhầm như mình đang mơ thấy cái Đục - cô con gái đã chết hiện về. Và khi Tràng giải thích, bà nín lặng hiểu ra mọi chuyện. Bà tủi phận vì đã không xứng đáng là một người mẹ, không lo cho con một cách đàng hoàng như người khác. Hơn cả đứa con, bà hiểu rõ, hiểu rõ hơn hoàn cảnh của chúng. "Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy mình mà con mình mới có vợ được", bà nghĩ. Có thể bà hởi ngao ngán về chuyện đó một chút nhưng cảm giác "hàm ơn" đô'i với người đàn bà là nhiều hơn, người đã giúp bà là nhiều hơn, người đã giúp bà "lo" cho con trai bà bằng cách làm vợ anh ta. Bà không dám tin rằng "chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này"; ý nghĩ về cuộc sống tương lai, và hiện tại gian nan có người đàn bà lạ tham dự vào là một cách bà đồng ý với Tràng. Cuộc sống không cho đòi hỏi quá nhiều. Dù họ có vật lộn, có làm khó dễ, có khó tính đòi hỏi điều này điều nọ thì câu trả lời cho họ vẫn là cái đói lơ lửng trước mắt.
[...] Tôi không chủ tâm diễn tả cái đói mà là muôn thể hiện cuộc sông của một cặp vợ chồng mới trong nạn đói khổ chỉ là cái nền thôi. Tuy nhiên chính vì nó mà niềm vui của cặp VỢ chồng luôn bấp bênh; ở đây có một ẩn ý: cả ba người đều không quên thực tại và cô' gắng của họ là tìm thấy niềm vui trong cuộc sông tốì tăm. Cái bữa ăn đầu tiên ba người ngồi chung mang ý nghĩa như bữa "tiệc cưới" tội nghiệp "giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuô'i thái rối và một đĩa muôi ăn với cháo". Sự tồi tàn của bữa ăn tương phản với niềm vui của họ. Họ đều "ăn rất ngon lành" và "vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn gia cảnh".
Họ gắn bó nhau và thương yêu nhau hơn. Tràng trở nên ngoan ngoãn và nghe lời mẹ "chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại hoà hợp thế". Tầm quan trọng của bữa ăn đầu thật rõ. Nhưng "tiệc cưới" kéo dài không lâu, mỗi người chỉ được hai lưng cháo "lõng bông".
Màn cuô'i của bữa tiệc hoàn toàn phũ phàng khiến mọi người nhớ đến thực tại khắc nghiệt. Cô dâu đón lấy bát ăn và "đưa mắt lên nhìn" rồi "hai con mắt thị tối lại" vì cảm nhận tận cùng cái cơ cực của cuộc sông mới. Nhưng chị đã "điềm nhiên và vào miệng". Đấy dù sao cũng là lối tốt nhất cho cuộc đời thị.
Thực ra với tứ truyện "Vợ nhặt", truyện nên kết thúc ở đây. Thâm tâm tôi cũng định thế nhưng do điều kiện của tờ báo bây giờ, truyện mới được kéo dài ra thêm. Tôi muôn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có hi vọng vào tương lai, có tình người là có cuộc sông. Phần gây xúc động nhất cho tôi khi đọc lại truyện là đoạn bà cụ Tứ trở về, ở đây tình của người mẹ thật lớn. Bà nhanh chóng hiểu rõ hoàn cảnh và chấp nhận ngay. Bà không chỉ thương coi trai mà còn đầy lòng thương xót với người đàn bà cùng quẫn kia dù hoàn cảnh bà cũng không khá hơn lắm. Đó chính là bản chất nhân đạo trong tâm hồn con người Việt. Đó cũng là chủ đề của câu chuyện.
Nguyễn Quyến ghi
(Báo Giáo dục & thời đại)