Soạn bài Cảm xúc mùa thu (Thu hứng)

  • Cảm xúc mùa thu (Thu hứng) trang 1
  • Cảm xúc mùa thu (Thu hứng) trang 2
  • Cảm xúc mùa thu (Thu hứng) trang 3
  • Cảm xúc mùa thu (Thu hứng) trang 4
  • Cảm xúc mùa thu (Thu hứng) trang 5
CẢM XÚC MÙA THU
(Thu hứng)
Đỗ Phủ
1. Đỗ Phủ (712 - 770) tự là Tử Mĩ, quê ở huyện Củng, tỉnh Hà Nam, xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học và thơ ca lâu đời. Ong sông trong nghèo khổ, chết trong bệnh tật, để lại gần 1500 bài thơ.
Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực vĩ đại của Trung Quốc, là danh nhân văn hóa thế giới. Thơ Đỗ Phủ có nội dung rất phong phú và sâu sắc. Đó là những bức tranh hiện thực sinh động và chân xác đến mức được gọi là “thi sử” (lịch sử bằng thơ) ; đó cũng là niềm đồng cảm với nhân dân trong khổ nạn, chứa chan tình yêu nước và tinh thần nhân đạo. Phong cách thơ Đỗ Phủ trầm uất, nghẹn ngào. Ông sành tát cả các thể thơ nhưng đặc biệt thành công ở thể luật thi. Với nhân cách cao thựơng, tài năng nghệ thuật trác việt, Đỗ Phủ được người Trung Quốc gọi là “Thi thánh”.
Thu hứng là một chùm thơ rất nổi tiếng của Đỗ Phủ, gồm 8 bài, được làm vào năm 766, khi nhà thơ đang ở Quỳ Châu (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên). Trong 8 bài Thu liứng, bài số 1 (bài được tuyển học trong SGK) được coi là cương lĩnh của cả chùm thơ. Một nhà phê bình đã nhận xét : “Bài thơ này đã bao quát cả bảy bài sau, mà “nỗi lòng quê cũ” là chỗ “vẽ rồng chấm mắt” (Vương Tự Thích). Hà Nam, quê Đỗ Phủ, có thành Lạc Dương (Đông Đô) từng bị quân An Lộc Sơn chiếm đóng và hiện còn là nơi tranh chấp giữa các thế lực cầm quyền. Bởi vậy, tuy có rất nhiều chỗ tả cảnh song tư tưởng cơ bản của cả chùm thơ là lòng yêu đất nước quê hương sâu nặng của nhà thơ. Ớ Việt Nam xưa, các cô đào trước khi ca bài Tì bà hành của Bạch Cư Dị, thường ca bài Thu hứng sô' 1 của Đỗ Phủ như một khúc tiền tấu.
Có thế’ chia bài thơ làm hai phần : nửa trên tả cảnh thu, nửa dưới thể hiện nỗi lòng của nhà thơ trước cảnh thu ấy.
Cảnh thu
Nguyễn Công Trứ dịch khá'thoát câu thơ thứ hai. cần đọc lại bản dịch nghĩa để thấy rõ cấu trúc chặt chẽ của bài thơ : câu thứ hai tả cảnh chung của núi Vu và kẽm Vu (kẽm là phần sông ở giữa hai bờ toàn là núi), câu thứ ba tả riêng cảnh kẽm Vu và câu thứ tư tả riêng cho cảnh núi Vu.
Cảnh sắc thu ở đây buồn bã song không đơn điệu. Nếu ở hai câu đầu, cảnh sắc đẫm màu bi thương, tàn tạ thì ở hai câu tiếp, cảnh sắc lại có phần vừa hoành tráng, vừa dữ dội. Nó mang đầy đủ những nét cơ bản trong phong cách của thơ Đỗ Phủ ở giai đoạn cuối đời : trầm uất, bi tráng.
Cảnh sắc thu ở đây còn mang dấu ấn rõ rệt những đặc điểm của địa phương Quỳ Châu, của núi sông ở vùng Vu Sơn, Vu Giáp. Cảnh sắc ở đây, như nhiều người nhận xét, vốn cũng vừa âm u, vừa hùng vĩ.
Tuy tác giả hầu như chưa nói tới cảnh đời, song phải chăng nó đã thấp thoáng ẩn hiện sau hình ảnh những cánh rừng phong điêu tàn vì gió sương vùi dập, cảnh đất trời đảo lộn lên sóng nước Trường Giang.
Đứng trước cảnh ấy, một nhà thơ như Đỗ Phủ làm sao không nhớ về quê cũ được ?
Nỗi lòng nhà thơ
Nỗi lòng nhớ quê biểu hiện một cách sinh động, sâu lắng qua hai câu thơ số 5 và số 6. ơ đây, bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật, tác giả đã đồng nhất nhiều sự vật và hiện tượng : tình và cảnh (nhìn hoa cúc nở mà trông như xòe ra những cánh hoa bằng nước mắt), hiện tại vầ quá khứ (giọt lệ hiện tại cũng là giọt lệ của quá khứ gần - hai năm qua - và quá khứ xa), sự vật và con người (dây buộc thuyền cũng là dây thắt lòng người lại).
- Kết của bài thơ khá độc đáo : nó không bộc lộ tình cảm chủ quan như thường lệ mà lại quay về tả một cách khách quan cảnh ngoài đời : không khí rộn rịp của cảnh mọi người nô nức may áo rét (câu 7) và giặt áo cũ (câu 8) để chuẩn bị cho mùa đông đang tới gần. Tiếng dao thước và tiếng chày đập áo là những âm thanh có tác dụng gợi cảm đặc biệt, chúng không làm cho khách tha hương vui lây mà chỉ càng thêm não lòng người. Đỗ Phủ chắc hẳn đã phải đau thương quằn quại nhiều khi hạ bút viết nên những câu thơ tưởng như lạnh lùng bình thản ấy !
Qua bài thơ, ta không thấy chỉ hình ảnh một chiều thu cụ thể ở đất Quỳ Châu mà còn thấy cả tình cảnh, nỗi lòng của một con người cụ thể sống trong hoàn cảnh ấy. Chiến tranh phong kiến liên miên ở đời Đường đã đẩy con người ấy, vốn là một ông quan của triều đình, về tận góc trời tây nam của đất nước. Và người ấy, ngày đêm chỉ còn ôm ấp một hi vọng mỏng manh : được trở về quê cũ. Hẳn ước mơ của Đỗ Phủ cũng là ước mơ của bao người dân nghèo khổ đời Đường. Bởi vậy bài thơ tuy không miêu tả trực tiếp tình hình xã hội, vẫn chan chứa tình đời và có giá trị hiện thực sâu sắc.
Ghi nhớ
Là cảm xúc riêng tư nhưng tho Đỗ Phủ vẫn luôn clian chứa lòng yểu nước, thương đời.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
THU HỨNG
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu Sơn, Vu Giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Dịch nghĩa
Đứng ở mặt thành Quỳ Châu, nhìn ra phong cảnh bôh bề. Lúc ấy sương móc sa xuôhg, lá phong trong rừng đã thấy úa vàng, trên dãy núi Vu Sơn, bóng tôì mịt mù, đủ thấy khí hậu rét lắm. Ở nẻo xa xa trong lòng sông, làn sóng cồn liền với chân trời. Trên ngọn núi, vài bóng mây lờ mờ tiếp với mặt đất. Thình lình nghĩ đến cảnh mình, tác giả sực nhớ mình đã lênh đênh đất khách đến hai năm trời, khóm cúc ở nhà chắc đã hai lần nở hoa, sau này về trông thấy chắc phải xót cảnh lưu lạc mà rỏ nước mắt.
Bây giờ tạm trú ở đây, không phải là lâu dài chắc chắn, cho nên cứ luôn nhớ đến quê hương, lòng mong mỏi cố hương của mình chẳng khác gì một chiếc 
thuyền lênh đênh giữa dòng sông có lúc buộc lại. Nhưng cái ngày ấy biết là ngày nào ? Hiện nay mùa thu sắp hết, mùa rét sắp đến, trên thành Bạch Đế mỗi lúc trời chiều, tiếng chày đập vải đã thấy rộn rịp, mau kíp như giục những ai quen việc kéo thước phải sắm áo lạnh. Đáng buồn vô cùng. (Ngô Tất Tố dịcli).
Dịch thơ
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa,
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ củ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
Nguyễn Công Trứ dịch
“Hứng” là nói “nổi lên” (hứng). Gái đẹp đương xuân thì ý nồng nàn, chí sĩ trước thu thì tình sâu xa ; phàm núi sông rừng núi, gió khói, mây sương, sắc cỏ, hương hoa, cái mắt thấy, điều tai nghe, có gì là không cùng với tấc lòng cùng chứa chất nhau, là không chợt tự nhiên tiếp xúc mà phát sinh ra. Tiên sinh với tấm lòng trung trí gặp buổi phiêu linh, lại đem cái thân lưu ngụ trải qua mùa thu héo rụng này, thì hứng ấy thực là hứng mất hết, lòng nguội tro, ý tiêu tan, chẳng có mảy may hứng nào, vì thế có tám bài này. Sô' bài mô phỏng của người sau nhiều đến thế như “mồ hôi trâu đầy cột” (hãn ngưu sung đồng') ; thấy tiên sinh khéo đặt đề thơ, họ cũng từng làm thử theo. Đầu đề là “thu hứng” mà thơ thì lại không có hứng. Người làm thơ trong lòng không có hứng mà lại muôn làm thu hứng, vì thế chẳng những thơ đúng thực là thơ diệu mà đề cũng đúng thực là đề diệu ; chẳng những đề đúng thực là đề diệu mà tiên sinh cũng đúng thực là người diệu. Từ xưa đến nay, thơ gồm bao nhiêu bài thì nhiều thêm một bài không được, mà ít đi một bài cũng không được. Như thế này gồm tám bài thì bảy bài không được, mà chín bài cũng không được. Tôi nói như vậy nhiều lần rồi mà có người chưa mấy tin ; xin hãy xem thơ này bài thứ nhất thuần tả “thu”, bài thứ tám thuần tả “hứng” thì sẽ biết tám bài là một vậy.
(1-4) “Lộ” (móc) mà nói là “ngọc lộ” (móc ngọc), “thụ lâm” (rừng cầy) mà nói là “phong thụ lâm” (rừng cây phong) ; chỉ một cõi “điêu thương” (héo hon) mà “trắng” thì tả rất mực “trắng”, “đỏ” thì tả rất mực “đỏ”, “thu” sở dĩ “hứng” chính là vì thế. Tiếp theo hạ chữ “Vu Sơn”, “Vu Giáp”, liền thấy cái khí “tiêu sâm” (mịt mờ), thảy đều lạnh lùng, vắng lặng, mà hai câu “ba lãng”, “phong vân” thì thừa tiếp ngay “Vu Sơn, Vu Giáp”. Còn như nói “móc ngọc” tả tơi, “rừng phong” soi lá, thì tả cảnh ấy tuy khiến cho người chí sĩ thêm nỗi bi ai, cũng là nơi mà kẻ u nhân gửi niềm hoài bão. Sao lại ở hoài chốn Vu Sơn, Vu Giáp mà ngước mắt nhìn sông, chỉ thấy sóng vọt ngất trời, mà đăm đăm trông lên ải, chỉ thấy gió mây mịt mờ liền đất ?
Thực đáng đau đớn bi thương ! Khiến cho người ta lòng hết khí tuyệt. Một giải xâu suô't cả tám bài, nôì thẳng câu cuối “giai nhân thập thúy” (người đẹp 112 
nhặt lông chim thúy), rồi than “bạch đầu ngâm vọng khổ đê thùy” (đầu trắng ngâm trong khổ cúi buồn).
(5 - 8) Kẻ không biết thì bảo “lưỡng khai” (nở hai lần) ấy là “tùng cúc” (khóm cúc), đâu biết rằng “lưỡng khai” ấy đều là “tha nhật lệ” (nước mắt ngày sau) ! Kẻ không biết thì bảo “cô chu” (con thuyền lẻ loi) hà tất phải “nhất hệ” ấy chỉ là “cố’ viên tâm” (lòng nhớ vườn xưa) ! Trên chữ “lệ” đặt chữ “tha nhật” : tuyệt diệu ! Chỉ có chính mình ở vào hoàn cảnh đó thì mới biết được. Câu 7 nói “xứ xứ” (nơi nơi) chính là tiên sinh “buộc lòng” (hệ tâm) vào một nơi (nhất xứ) ; Bạch Đế thành ở phía đông Quý Phủ : đây là nói gần để chỉ xa vậy. Trong bụng nghĩ đến “dao thước” (đao xích) trong nhà, mà trong tai chỉ nghe thấy tiếng châm thành Bạch Đế ; khách xa nhà vì thế mà rất mực thê lương. Dưới “châm” mà hạ chữ “thành cao” liền thấy được là tai xa nghe, mắt xa trông, nỗi khổ của khách xa nhà vì đó mà rất mực thê lương. Các câu 3, 4 thừa các câu 1, 2 ; các câu 5, 6 chuyển đến các câu 7, 8 : cứ xem như thế thì biết lời tôi “phân giải” không lầm đâu.
(Kim Thánh Thán phê bình)