Soạn bài Đại cáo bình Ngô (Bình Ngô đại cáo)

  • Đại cáo bình Ngô (Bình Ngô đại cáo) trang 1
  • Đại cáo bình Ngô (Bình Ngô đại cáo) trang 2
  • Đại cáo bình Ngô (Bình Ngô đại cáo) trang 3
  • Đại cáo bình Ngô (Bình Ngô đại cáo) trang 4
  • Đại cáo bình Ngô (Bình Ngô đại cáo) trang 5
  • Đại cáo bình Ngô (Bình Ngô đại cáo) trang 6
  • Đại cáo bình Ngô (Bình Ngô đại cáo) trang 7
ĐẠI CÁO BÌNH NGÔ
(Bình Ngô đại cáo)
Nguyễn Trãi
A. KIẾN THỨC Cơ BẢN
Giới thiệu
Bài Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi soạn thảo đầu năm 1428, công bô' cuộc kháng chiến chính nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn chông giặc Minh đã kết thúc thắng lợi, mở ra một kỉ nguyên thanh bình độc lập của đất nước.
Hiệu quả nghệ thuật nhan đề “Bình Ngô đại cáo” :
+ Đại cáo : không phải là bài cáo thường mà là bài đại cáo mang tính chất quốc gia trọng đại.
+ Dùng từ Ngô để chỉ giặc Minh : gợi lên được sự khinh bỉ và lòng căm thù của nhân dân ta đối với giặc phương Bắc đã có từ ngàn xưa và đô'i với giặc Minh xâm lược.
Đọc - hiểu văn bản
Bình Ngô đại cáo là một áng văn chính luận có kết cấu chặt chẽ.
Có thể chia bài cáo thành bôn đoạn :
1. Đoạn 1 : nêu luận đề chính nghĩa.
Nguyễn Trãi nêu nguyên lí chính nghĩa làm chỗ dựa, làm căn cứ xác đáng để triển khai toàn bộ nội dung bài cáo..
Trong nguyên lí chính nghĩa của Nguyễn Trãi, có hai nội dung chính được nêu lên : tư tưởng nhân nghĩa và chân lí về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của nước Đại Việt.
Tư tưởng nhân nghĩa là tư tưởng có tính chất phổ biến, mặc nhiên được thừa nhận thời bấy giờ. “Nhân nghĩa” là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí. “Nhân nghĩa” là “yên dân trừ bạo”, tức là tiêu trừ tham tàn bạo ngược, bảo vệ cuộc sống yên ổn của dân. Đặt trong hoàn cảnh Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo thì người dân mà tác giả nói tới là người dân Đại Việt đang bị xâm lược, còn kẻ bạo tàn chính là giặc Minh cướp nước. Như vậy, theo Nguyễn Trãi, nhân nghĩa gắn liền với yêu nước, chông xâm lược.
Dân tộc ta chiến đấu chông xâm lược là nhân nghĩa, là phù hợp với nguyên lí chính nghĩa thì sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của dân tộc Việt Nam là một chân lí khách quan phù hợp với nguyên lí đó.
Sau khi nêu tư tưởng nhân nghĩa, tác giả nêu chân lí khách quan về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của nước Đại Việt. Chân lí này có cơ sở chắc chắn từ thực tiễn lịch sử. Bản dịch đã cố gắng lột tả tính chất hiền nhiên, vốn có, lâu đời của nước Đại Việt tồn tại độc lập bằng các từ : “từ trước”, “vốn xưng”, “đã lâu”, “đã chia”, “cũng khác” (nguyên văn : “duy ngã”, “thực vi”, “kí thù”, “diệc dị”).
Nguyễn Trãi đã đưa ra những yếu tố căn bản để xác định độc lập, chủ quyền của dân tộc : cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, nền văn hiến lâu đời, và thêm nữa là lịch sử riêng, chế độ riêng với “hào kiệt không baó giờ thiếu”.
2= Đoạn 2 : vạch rõ tội ác của kẻ thù.
Chỉ bằng mười hai cặp tứ lục gồm hai mươi bốn câu, tác giả đã viết nên một bản cáo trạng đanh thép về tội ác của giặc Minh với một trình tự rất logic : vạch trần âm mưu xâm lược, lên án chủ trương cai trị thâm độc, tô" cáo mạnh mẽ những hành động tội ác.
Nguyễn Trãi chỉ rõ âm mưu cướp nước ta của giặc Minh, vạch trần luận điệu bịp bợm “phù Trần diệt Hồ” của chúng. Việc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần chỉ là một nguyên nhân - đúng hơn chỉ là một nguyên cớ để giặc Minh thừa cơ gây họa. Những từ “nhân”, “thừa cơ” trong bản dịch đã góp phần lột trần luận điệu giả nhân giả nghĩa của giặc, “phù Trần diệt Hồ” chỉ là một cách “mượn gió bẻ măng”. Âm mưu thôn tính nước ta vốn có sẵn, có từ lâu trong đầu óc của “thiên triều”.
Điều đáng lưu ý là khi vạch rõ âm muU xâm lược của giặc Minh, Nguyễn Trãi đứng trên lập trường dân tộc, nhưng khi tố cáo chủ trương cai trị thâm độc và tội ác của giặc thì Nguyễn Trãi đứng trên lập trường nhân bản.
ớ Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi không tô' cáo chủ trương đồng hoá của kẻ thù. Tác giả đi sầu tố cáo những chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Minh : huỷ hoại cuộc sống con người bằng hành động diệt chủng, tàn sát người dân vô tội : “nướng dần đen”, “vùi con đỏ” ; bằng sự huỷ hoại môi trường sông : “Nặng thuế khoá sạch không đầm núi”, “Tàn hại cả giông côn trùng cây cỏ”... Người dân vô tội trong tình cảnh bi đát đến cùng cực, không còn đường sống : “chôn chôn lưới chăng”, “nơi nơi cạm đặt”.
Nghệ thuật viết cáo trạng : dùng hình tượng để diễn tả tội ác kẻ thù :
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Trước vô số tội ác của giặc Minh đô'i với nhân dân ta thời bấy giờ, Nguyễn Trãi đã khái quát lại trong hai hình tượng “nướng dân đen”, “vùi con đỏ”. Hình tượng này vừa diễn tả một cách rất thực tội ác man rợ kiểu trung cổ của giặc Minh, vừa mang tính khái quát có ý nghĩa khắc vào bia căm thù để muôn đời nguyền rủa quân xâm lược.
Đối lập với tình cảnh người dân vô tội là hình ảnh kẻ thù : “Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán”. Câu thơ đã khắc hoạ bộ mặt quỷ sứ khát máu người của quân xâm lược.
Để diễn tả tội ác chất chồng của giặc, để diễn tả khối căm hờn chất chứa của nhân dân ta, Nguyễn Trãi đã kết thúc bản cáo trạng bằng câu văn đầy hình tượng :
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi !
Lấy cái vô hạn vô cùng của thiên nhiên {trúc Nam Sơn, nước Đông Hải} để nói cái vô cùng vô hạn của tội ác và sự nhơ bẩn của kẻ thù, câu văn đầy hình tượng và đanh thép đó đã cho ta cảm nhận sâu sắc tội ác “lẽ nào trời đất dung tha, ai bảo thần dân chịu được” của giặc Minh xâm lược.
Lời văn trong bản cáo trạng đanh thép, thông thiết : khi uất hận trào sôi, khi cảm thương tha thiết, lúc muôn hét thật to, lúc nghẹn ngào tấm tức,... cùng một lúc diễn tả được những biểu hiện khác nhau nhưng luôn gắn bó với nhau trong tâm trạng, tình cảm con người.
Đứng trên lập trường nhân bản, hơn nữa, đứng về quyền sông của người dân vô tội để tố cáo, lên án giặc Minh, Bình Ngô đại cáo chứa đựng những yếu tô' của bản tuyên ngôn nhân quyền.
Đoạn 3 : kể lại quá trình chinh phạt gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa.
Đây là đoạn văn dài nhất bài cáo, có ý nghĩa như bản hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đoạn này chia làm hai phần tương ứng với hai giai đoạn của cuộc khởi nghĩa.
Phản ánh giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa, tác giả tập trung khắc hoạ hình tượng Lê Lợi, chủ yếu là hình tượng tâm lí với bút pháp trữ tình. Thủ pháp ấy có hiệu quả nghệ thuật lớn lao : qua hình tượng một con người mà khắc hoạ được những khó khăn gian khổ và ý chí quyết tâm của toàn dân tộc.
ơ hình tượng Lê Lợi có sự thống nhất giữa con người bìnli thường và lãnh tụ cuộc khởi nghĩa : bình thường từ nguồn gốc xuất thân (“Chôn hoang dã nương mình”), đến cách xưng hô khiêm nhường (đại từ “dư” với nghĩa là “tôi”, “ta”, chưa phải là “trẫm” như sau này). Nhưng Lê Lợi là người có lòng căm thù giặc sâu sắc (“há đội trời chung”, “thề không cùng sống”), có lí tưởng hoài bão lớn (“Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muôn tiến về đông”), có quyết tâm cao thực hiện lí tưởng (“đau lòng nhức óc”, “quên ăn vì giận”, “Những trằn trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi”).
Qua sự tái hiện hình tượng Lê Lợi - con người bình thường và người anh hùng - tác giả đã phần nào nói lên tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Trong bản tuyên ngôn độc lập lịch sử này, Nguyễn Trãi đã tuyên ngôn về vai trò và sức mạnh của người dân - những người manh lệ (manh : người dân cày lưu tán ; lệ : người tôi tớ, đi ở) :
Yết can vi kì, manh lệ chi đồ tứ tập
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.
Đó là một tư tưởng lớn. Mãi sau này, phải đến Nguyễn Đình Chiểu mới lại thấy xuất hiện những người dân ấp, dân lân ở Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Trong một bản tuyên ngôn trọng đại như Bỉnh Ngô đại cáo, những người manh lệ được nói đến một cách công khai, trịnh trọng như vậy “cũng là chưa thấy xưa nay”.
Tác giả sử dụng bút pháp trữ tình rất phù hợp với việc khắc hoạ hình tượng tâm trạng người anh hùng Lê Lợi. Bút pháp trữ tình đã tạo nên trong đoạn văn mang nội dung hồi tưởng những âm hưởng vừa hào hùng, vừa bi thiết.
Phản ánh giai đoạn hai của cuộc khởi nghĩa, tác giả dựng lên bức tranh toàn cảnh cuộc khởi nghĩa Lam Sơn với bút pháp nghệ thuật anh hùng ca. Từ hình tượng đến ngôn ngữ, từ màu sắc đến âm thanh, nhịp điệu, tất cả đều mang đặc điểm của bút pháp anh hùng ca. Những hình tượng phong phú, đa dạng, đo bằng sự lớn rộng, kì vĩ của thiên nhiên :
+ Chiến thắng của ta : sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay, sạch không kình ngạc, tan tác chim muông, trút sạch lá khô, sụt toang đê vỡ.
+ Sức mạnh của ta : đá núi củng mòn, nước sông phải cạn.
+ Thất bại của địch : máu chảy thành sông, máu trôi đỏ nước, thây chất
dầy nội, thây chất đầy đường...
+ Khung cảnh chiến trường : sắc phong vân phải đổi, ánh nhật nguyệt phải mờ.
Về mặt ngôn ngữ, trong nguyên văn cũng như bản dịch, các động từ mạnh liên kết với nhau thành những chuyển rung dồn dập, dữ dội. Các tính từ chỉ mức độ ở điểm tối đa tạo thành hai mảng trắng - đen đô'i lập, thể hiện cái thế, cái đà chiến thắng của ta và cái thế, cái đà thất bại của địch. Câu văn khi dài, khi ngắn, biến hoá linh hoạt trên cái nền chung là nhạc điệu dồn dập, sảng khoái, bay bổng. Âm thanh giòn giã, hào hùng như sóng trào, bão cuốn. Nhịp mạnh, dồn dập là xương sông của đoạn vãn :
Gươm mài đá / đá núi cũng mòn Voi uống nước / nước sông phải cạn Đánh một trận / sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận / tan tác chim muông.
Xen giữa bản anh hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là hình ảnh kẻ thù xâm lược. Mỗi tên một vẻ, mỗi đứa một cảnh nhưng đều giông nhau ở điểm ham sông sợ chết đến hèn nhát. Mỗi tên một vẻ, mỗi dựa một cảnh, có bao nhiêu thái độ, tâm trạng thì Nguyễn Trãi có bấy nhiêu từ ngữ*để thể hiện.
Hình tượng kẻ thù thảm hại, nhục nhã càng tôn thêm khí thế hào hùng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đồng thời, qua hình tượng kẻ thù hèn nhát và được thaf tội chết, được tạo điều kiện để sông, Nguyễn Trãi càng làm nổi bật tính chất chính nghĩa, nhân đạo sáng ngời của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn : “dĩ chí nhân địch cường bạo”.
Đoạn 4 : tuyên bố chiến quả, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa.
Trong lời kết thúc bài đại cáo, quan Thừa chỉ Nguyễn Trãi thay lời Lê Lợi trịnh trọng và vui mừng truyền đi tuyên bố nền độc lập tự do của dân tộc đã được lập lại :
Xã tắc từ đây vững bển,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.
Tác giả rút ra bài học lịch sử : Sự thay đổi nhưng thực chất là sự phục hưng (bĩ rồi lại thái, hối rồi lại minh) là nguyên nhân, là điều kiện để thiết lập sự vững bền. Trong sáu câu, có hai câu nói tới sự vững bền (Xã tắc từ đây vững bền và Muôn thuở nền thái bình vững chắc) và bốn câu nói tới sự thay đổi. Sự vững bền được xây dựng trên cơ sở đã phục hưng dân tộc, cho nên viễn cảnh của đất nước hiện ra thật tươi sáng, huy hoàng : “Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chôh”.
Sự kết hợp giữa sức mạnh truyền thông và sức mạnh thời đại : Có hiện thực hôm nay và tương lai ngày mai là bởi “nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ”, nhờ có chiến công trong quá khứ : “Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt nghìn năm”.
Trong lời tuyên bô' kết thúc, cảm hứng về độc lập dân tộc và tương lai đất nước đã hoà quyện với cảm hứng về vũ trụ khi “bĩ”, khi “hối” nhưng quy luật là hướng tới sự sáng tươi, phát triển, càng khắc hoạ sâu đậm niềm tin và quyết tâm của nhân dân Đại Việt xây dựng “đài xuân dân tộc” khi vận hội duy tân đã mở.
Tổng kết
Với nghệ thuật chính luận tài tình, “Bình Ngô đại cáo” tộ' cáo tội ác kẻ thù xâm lược, ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. “Bình Ngô đại cáo” là bản tuyên ngôn độc lập, một áng “thiên cổ hùng văn” của dân tộc.
B. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Từ xưa, người ta đã nhận định “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi là “thiên cổ hùng văn”. Anh (chị) hãy giải thích nhận định trên và phân tích bài cáo để làm sáng tô nhận định đó.
* Yêu cầu của đề bài :
Giải thích
Thế nào là “thiên cổ hùng văn” ? (Là áng văn hùng tráng cả nghìn đời còn lưu truyền).
Vì sao gọi “Bình Ngô đại cáo” là “thiên cổ hùng văn” ?
“Bình Ngô đại cáo” được gọi là hùng văn vì nội dung thể hiện một tinh thần yêu nước mãnh liệt, tinh thần chiến đấu hết sức mạnh mẽ quyết liệt, khí thế hào hùng, lòng căm thù giặc sôi sục. Bài cáo đã ghi lại một thời kì đau thương mà oanh liệt của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống quân Minh với những chiến thuật hết sức đúng đắn và sáng tạo đã đem lại những trận đánh long trời lở đất làm cho quân thù phải khiếp sợ, đẩy chúng đến sự thất bại toàn diện và nhục nhã.
Bài cáo còn viết với nghệ thuật xuất sắc : lời văn biền ngẫu hùng tráng, hơi văn cuồn cuộn như bão giông, như sóng lớn, từ ngữ sắc bén như những nhát dao chém thẳng vào quân xâm lược, phép đô'i kết hợp với cấu trúc câu của loại phú cận thể tạo nên tiết tấu mạnh mẽ thể hiện được tất cả các cảm xúc hào sảng bừng bừng trong huyết quản của tác giả ngay trong những ngày nghĩa quân Lam Sơn thắng trận giòn giã.
Bài cáo mãi mãi là âm vang hào hùng trên non sông đất Việt vì đã ghi lại được ý chí, khát vọng chiến thắng, hòa bình, độc lập của toàn dân ; vì đã khẳng định được quyền tự chủ và ý chí chiến đấu đến cùng để giành quyền tự chủ của dân tộc trước một tên xâm lược sừng sỏ. Bài cáo còn nêu cao tư tưởng nhân nghĩa để khẳng định đạo lí ngàn đời của nhân dân Việt Nam.
Sự bất hủ của bài cáo là do thiên tài nghệ thuật của Nguyễn Trãi, nhưng còn có sự góp phần của dịch giả. Bài dịch chữ Nôm quả là một công trình dịch thuật xuất sắc.
Chứng minh
“Bình Ngô đại cáo” là một bản hùng ca xuất sắc về nội dung và nghệ thuật. Bài văn ca ngợi đất nước và dân tộc với lô'i văn trong sáng, tràn đầy sức mạnh của lòng tự tin và tự hào.
“Như nước Đại Việt ta từ trước... Chứng cứ còn ghi”.
Một bản cáo trạng đanh thép về tội ác của quân xâm lược :
“Nướng dân đen... Ai bảo thần dân chịu được” (phân tích để thấy rõ lòng căm thù sôi sục của tác giả).
Nỗi niềm trăn trở lo âu cho vận mệnh của đất nước thể hiện tình yêu nước thương dân sâu sắc :
“Ngẫm thù lớn ... Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi”.
Cảm xúc dạt dào khi diễn tả thời cơ của khởi nghĩa, khi tập hợp được lực lượng nhân dân, khi lực lượng nghĩa quân đã phát triển :
“Nhân dân bốn cõi một nhà... chén rượu ngọt ngào”.
Chiến lược chiến thuật tài tình và chiến thắng vang dội là trọng tâm làm nên cảm xúc vừa mãnh liệt vừa trữ tình cho áng văn chương bất hủ này.
“Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh..”
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn..”
Các câu tường thuật chiến thắng là những lời hào hùng nhất, như có sức mạnh xô núi lấp biển :
“Trận Bồ Đằng... nhơ để ngàn năm”
“Ngày mười tám ...”
“Gươm mài đá...”
Kết thúc bài cáo là những lời ca trang trọng và tươi vui nhất, là niềm hạnh phúc dạt dào.
Nhận xét chung
Tư tưởng nhân nghĩa là nguồn gốc của giá trị văn chương, đấy chính là cái bệ phóng để đưa tác phẩm từ quá khứ vào tương lai. Nghệ thuật cấu trúc văn bản và dùng từ là đôi cánh để nâng cao tác phẩm hơn nữa, để đưa tác phẩm bay mãi về phía trước.
Nguyễn Trãi là một người yêu nước, yêu nước sâu sắc, mạnh mẽ thiết tha với tâm hồn và khí phách của người anh hùng. Đối với Nguyễn Trãi, yêu nước là thương dân, để cứu nước phải dựa vào dân, đem lại thái bình cho dân, cho mọi người. “Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi cuối cùng chẳng qua là lòng yêu nước, thương dân : cái nhân, cái nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng chống ngoại xâm, diệt tàn bạo vì độc lập của nước, hạnh phúc của dân” (Phạm Văn Đồng).
“Trước Lê Lợi, đã từng có chiến thắng oanh liệt đuổi sạch quân Nguyên xâm lược ở thời nhà Trần, sau thời Lê Lợi, sẽ có chiến thắng thần tốc của vua
Quang Trung đánh đuổi 20 vạn quân Thanh xâm lược, nhưng trong văn học sử, chỉ có một áng văn Bình Ngô đại cáo, bởi các lẽ : không có ba Nguyễn Trãi để viết ba áng văn khải hoàn mà lịch sử đòi hỏi ở ba thời điểm, mà chỉ có một Nguyễn Trãi cụ thể, hiệu ức Trai, ở đầu triều Lê cùng với tài thao lược kinh bang tế thế, đã có cái thiên tài viết văn” (Xuân Diệu).
Đặng Cao Sửu