Soạn bài Phú sông Bạch Đằng (Bạch Đằng giang phú)

  • Phú sông Bạch Đằng (Bạch Đằng giang phú) trang 1
  • Phú sông Bạch Đằng (Bạch Đằng giang phú) trang 2
  • Phú sông Bạch Đằng (Bạch Đằng giang phú) trang 3
  • Phú sông Bạch Đằng (Bạch Đằng giang phú) trang 4
  • Phú sông Bạch Đằng (Bạch Đằng giang phú) trang 5
  • Phú sông Bạch Đằng (Bạch Đằng giang phú) trang 6
  • Phú sông Bạch Đằng (Bạch Đằng giang phú) trang 7
  • Phú sông Bạch Đằng (Bạch Đằng giang phú) trang 8
  • Phú sông Bạch Đằng (Bạch Đằng giang phú) trang 9
PHÚ SÔNG BẠCH ĐẰNG
(Bạcli Đằng giang phú)
Trương Hán Siêu
A. KIẾN THỨC Cơ BẢN
Giới thiệu
Trương Hán Siêu (? - 1354) tên tự là Thăng Phủ, người làng Phúc Thành, huyện Yên Ninh (nay là thị xã Ninh Bình), vôh là môn khách của Trần Hưng Đạo, thời Anh Tông làm chức Hàn lâm học sĩ, qua mấy triều sau làm tới chức Tham tri chính sự. Khi mất, ông được vua tặng tước Thái bảo, Thái phó và được thờ ở Vãn Miếu (Hà Nội). Trương Hán Siêu tính tình cương trực, học vấn uyên thâm, được các vua Trần tin cậy, nhân dân kính trọng.
Tác phẩm của ông hiện còn 4 bài thơ, 3 bài văn trong đó có bài Bạch Đằng giang phú nổi tiếng.
“Bạch Đằng giang phú” (Phú sông Bạch Đằng) viết về sông Bạch Đằng - nơi đã từng ghi dấu chiến công trong lịch sử giữ nước của dân tộc.
Chưa rõ bài phú được viết năm nào, chỉ đoán khoảng 50 năm sau cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên thắng lợi.
Bài phú được viết bằng chữ Hán, theo lối phú cổ thể.
Phú là một thể văn có vần hoặc văn xuôi xen lẫn văn vần, dùng để tả cảnh vật, phong tục, kể sự việc, bàn chuyện đời... Có bốn loại phú : cổ phú, bài phú, luật phú, văn phú.
+ Cổ phú (phú cổ thể) là phú có trước thời Đường, có vần, không nhất thiết phải có đối, cuối bài thường được kết lại bằng thơ.
+ Bài phú thường làm theo lối văn biền ngẫu (mỗi câu có hai vế với số’ chữ ngang nhau và sóng đôi nhau như một cỗ xe có hai ngựa kéo).
+ Luật phú (phú Đường luật hay còn gọi là phú cận thể) được đặt ra từ thời Đường, có vần, có đối, có luật bằng trắc chặt chẽ.
+ Văn phú được đặt ra từ thời Tông, tương đõì tự do, dùng câu văn xuôi.
Nhìn chung, một bài phú gồm bốn đoạn : đoạn mở, đoạn giải thích, đoạn bình luận và đoạn kết.
Đọc - hiểu văn bản
Trong bài phú của Trương Hán Siêu, có hai hình tượng nhân vật : “khách” và các bô lão.
Hình tượng nhân vật “khách”
Nhân vật “khách” là sự phân thân của chính tác giả. “Khách” dạo chơi phong cảnh không chỉ để thưởng thức vẻ đẹp của phong cảnh thiên nhiên mà còn để tìm hiểu cảnh trí đất nước, nhằm bồi bổ tri thức. “Khách” xuất hiện với tư thế của con người có tâm hồn khoáng đạt, hoài bão lớn lao : “Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết - Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều - Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”.
Cái “tráng chí bốn phương” của “khách” - cũng là của chính tác giả - được gợi lên qua những địa danh. Có hai loại địa danh mà “khách” đã từng đi qua và dừng lại :
+ Loại địa danh thứ nhất lấy từ trong điển cô' Trung Quốc. Đây là loại địa danh tác giả đi qua chủ yếu bằng sách vở, bằng trí tưởng tượng như “Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương - Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt”. Những hình ảnh không gian to rộng : biển lớn (lướt bể chơi trăng), sông hồ (Cửu Giang, Ngữ Hồ), những vùng đất nổi tiếng (Tam Ngô, Bách Việt, Vân Mộng) đã thể hiện “tráng chí bốn phương” của “khách”.
+ Loại địa danh thứ hai là những địa danh của đất Việt, với không gian cụ thể : cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng. Đây là những hình ảnh thật, đang hiện ra trước mắt và được tác giả trực tiếp miêu tả. Chính vì vậy, cảnh sắc thiên nhiên nơi tác giả dừng lại là cảnh thực, cụ thể. Cảnh hiện lên thật hùng vĩ, hoành tráng (“Bát ngát sóng kình muôn dặm - Thướt tha đuôi trĩ một màu”) song cũng ảm đạm, hiu hắt (“Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu - Sông chìm giáo gãy, gò đẩy xương khô”).
Trước cảnh tượng đó, với một tâm hồn phong phú, nhạy cảm, tác giả vừa vui, tự hào, vừa buồn đau, nuối tiếc. Vui trước cảnh sông nước hùng vĩ, thơ mộng (“Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu”), tự hào trước dòng sông từng ghi bao chiến tích. Buồn đau, nuối tiếc vì chiến trường xưa một thời oanh liệt nay trơ trọi, hoang vu, dòng thời gian đang làm mờ bao dấu vết.
Hình tượng các bô lão
Nhân vật tập thể các bô lão địa phương có thể là thật, là những người dân địa phương ven sông Bạch Đằng mà tác giả gặp trên đường vãn cảnh. Cũng có thể nhân vật “bô lão” là nhân vật có tính chất hư cấu, là tâm tư tình cảm của chính tác giả hiện thành nhân vật trữ tình. Các bô lão đến với “khách” bằng thái độ nhiệt tình, hiếu khách, tôn kính khách. Sau một câu hồi tưởng về trận “Ngô chúa phá Hoằng Thao”, các bô lão kể với khách về chiến tích “buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Õ Mã”. Lời kể theo trình tự diễn biến tình hình. Ngay từ đầu, ta xuất quân với khí thế hào hùng : “Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói”, giặc cũng ra oai : “Những tưởng gieo roi một lần - Quét sạch Nam bang bốn cõi”. Tiếp đến, trận đánh diễn ra gay go, quyết liệt “thư hùng chửa phân”.
Đó là sự đối đầu không chỉ về lực lượng mà còn là đối đầu về ý chí : ta với lòng yêu nước, với sức mạnh chính nghĩa, địch “thế cường” với bao mưu ma chước quỷ. Chính vì vậy, trận chiến diễn ra ác liệt : “Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ - Bầu trời đất chừ sắp đổi”. Những hình tượng đặt trong thế đốì lập : Nhật nguyệt / mờ, trời đất /đổi, báo hiệu một cuộc thuỷ chiến kinh thiên động địa.
Nhưng rồi cuối cùng chính nghĩa cũng chiến thắng, giặc “hung đồ hết lối”, chuôc nhục muôn đời :
Đến nay nước sông tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi !
Thái độ, giọng điệu của các bô lão trong khi kể về chiến công Bạch Đằng là đầy nhiệt huyết, tự hào, là cảm hứng của người trong cuộc. Lời kể không dài dòng mà rất súc tích, cô đọng, khái quát nhưng gợi lại được diễn biến, không khí của trận đánh hết sức sinh động. Lời kể sử dụng những câu thơ dài ngắn khác nhau, phù hợp với tâm trạng và diễn biến trận đánh. Những câu thơ dài, gợi không khí trang nghiêm : “Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ổ Mã - Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao”. Những câu thơ ngắn gọn, sắc bén, dựng lên khung cảnh chiến trận căng thẳng, gấp gáp : “Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới - Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói”.
Sau lời kể về trận chiến là lời suy ngẫm, bình luận của các bô lão về chiến thắng sông Bạch Đằng. Lời suy ngẫm, bình luận đã chỉ ra nguyên nhân ta thắng địch thua. Ta thắng giặc vì đất nước ta tồn tại từ ngàn xưa. Trời lại cho ta đất hiểm. Nhưng điều quyết định là ta có “nhân tài giữ cuộc điện an” :
Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Khẳng định vai trò, vị trí con người, Trương Hán Siêu đã gợi lại hình ảnh Trần Hưng Đạo với câu nói đã lưu cùng sử sách. Sử chép rằng : ngày 14 tháng 11 năm Đinh Hợi (1287), có người tâu về triều việc quân Nguyên đã tràn vào cửa ải sông Hồng ở mạn Phú Lương, vua Nhân Tông lo lắng hỏi Trần Hưng Đạo rằng : “Giặc đến thì làm thế nào ?”. Hưng Đạo ung dung trả lời : “Năm nay, giặc đến dễ đánh” (Kim thiên, tặc nhân'). Câu nói của Hưng Đạo Vương là câu nói của người nắm chắc binh pháp, thấy rõ vai trò quyết định của con người. Theo binh pháp cổ, muôn thắng trong chiến tranh cần ba yếu tô' : thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Bài phú chỉ nói tới hai yếu tô' là địa lợi (đất hiểm) và nhân hoà (nhân tài). Tuy nhiên, thắng giặc không cô't ở đất hiểm mà chủ yếu ở đức lớn, ở sức mạnh của con người. Khẳng định sức mạnh, vị trí của con người, đó là cảm hứng mang giá trị nhân vãn và có tầm triết lí sâu sắc.
Sau những suy ngẫm, bình luận là lời ca của cáơ bô lão mang ý nghĩa tổng kết. Lời ca có giá trị như một tuyên ngôn về chân lí : bất nghĩa (như Lưu Cung) thì tiêu vong, anh hùng (như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo) thì lưu danh thiên cổ :
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn xưa chỉ có anh hùng lưu danh.
11Ọ
Để khảng định sự vĩnh hằng của chân lí đó, tác giả đã dựa vào quy luật của tự nhiên : chân lí vĩnh hằng, bất biến như sông Đằng kia vĩnh hằng cứ đêm ngày “luồng to sóng lớn dồn về biển Đông” theo quy luật tự nhiên muôn đời.
Lời ca - lời bình luận của khách
Lời ca của khách tiếp nối lời các vị bô lão ca ngợi sự anh minh của “hai vị thánh quân” (Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông), đồng thời ca ngợi chiến tích của sông Bạch Đằng lịch sử nhiều lần đánh thắng quân xâm lược, đem lại nền thái bình cho đất nước. Ở hai câu cuối lời ca, khách vừa biện luận, vừa khẳng định chân lí : Trong mối quan hệ giữa “địa linh” (đất thiêng) và “nhân kiệt” (người tài) thì “nhân kiệt” là yếu tố quyết định. Ta thắng giặc không chỉ bởi “đất hiểm” mà quan trọng hơn là bởi dân tộc ta có “đức cao”, “đức lành”. Khẳng định “địa linh” bởi “nhân kiệt”, nêu cao vai trò và vị trí của con người, lời ca kết thúc bài phú vừa mang niềm tự hào dân tộc vừa thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp.
Gki nhớ
“Phú sông Bạch Đằng” đã thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc trước chiến công trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất và đạo lí nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm củng chứa đựng tư tưởng nhân văn cao dẹp qua việc đề cao vai trò, vị trí của con người và những hoài niệm về quá khứ.
“Phú sông Bạch Đằng” là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học Việt Nam.
B. TƯ LIỆU THAM KHẢO
Bạch Đằng giang phú là một bài phú theo lối cổ thể, được tác giả tuân theo đúng quy tắc kết cấu của thể loại. Như Bùi Văn Nguyên đã phân tích, bài phú gồm 6 phần :
Lung, tức phần phá đề
“Khách có kẻ... tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”. Nói : ham thích du ngoạn mà cũng là tráng chí của tác giả.
Biện nguyên, tức phần thừa đề
“Bèn giữa dòng... thuyền bơi một chiều”
Nói : cuộc du ngoạn trên sông Bạch Đằng.
Thích thực : tả tỉ mỉ cuộc du ngoạn trên sông Bạch Đằng.
“Bát ngát sóng kỉnh... dấu vết luống còn lưu”.
Cảnh trên sông Bạch Đằng hùng vĩ nhưng đìu hiu, gợi buồn.
Phu diễn, nghĩa là trình bày để minh họa thêm chủ ý đoạn trên.
“Bên sông các bô lão... nghìn xưa ca ngợi”.
Các bô lão kể cho tác giả nghe về mảnh đất lịch sử oanh liệt, về trận chiến thắng lẫy lừng của nhà Trần trên sông Bạch Đằng.
Nghị luận, tức lời bàn của các bô lão.
“Tuy nhiên... nhớ người xưa chừ lệ chan”.
Các bô lão nhấn mạnh vai trò của con người, đặc biệt là của Đại Vương Trần Hưng Đạo đối với thắng lợi của trận đánh.
Kết : phần còn lại của bài phú.
Lời tổng luận của các bô lão và kết luận của tác giả.
Tuy nhiên, nếu xét về mạch ý thì bài phú có 3 phần chính :
Nhân vật “khách” cũng chính là “cái tôi” tác giả
Mở đầu tác phẩm, nhân vật khách xuất hiện với đặc điểm nổi bật của tính cách : phóng khoáng, hào mại. Khách rất ham du ngoạn ■ giương buồm giong gió, lướt bể chơi trăng ; sớm thả thuyền ở Tiêu Tương, chiều đã đến thăm Vũ Huyệt. Gót giang hồ đã đi khắp :
Cửu giang, Ngủ hồ, Tam Ngô, Bách Việt.
Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều.
Nhưng, tráng chí vẫn còn chưa thỏa : “Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”.
Ớ tiểu đoạn này bằng những hình ảnh không gian to rộng : biển lớn {giương buồm, giong gió, lướt bể chơi trăng), sông hồ {Ngủ Hồ, Nguyên, Tương), những vùng đất nổi tiếng {Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng) ; bằng những động từ thể hiện động tác mạnh : thôn (nuốt), quải (treo), thám (thăm) ; bằng số từ sổ bách, số nhiều, đi liền với cách diễn tả thời gian chuyển tiếp nhanh : sớm, chiều, và cả cách nói khẳng định : Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết, tác giả đã khắc họa rõ nét tính cách ưa hoạt động, có tráng chí, sôi nổi, ham hiểu biết của khách. Tất cả những điều đó tạo nên sự khác biệt trong những cuộc chơi của khách - một con người hành động, nhập cuộc khác với các cuộc nhàn du của các bậc ẩn sĩ, lánh đời. Những cuộc đi của khách không chỉ để tìm thi liệu mà còn để bồi bổ tri thức vì những trang sử nước nhà như một Tử Trường (Tư Mã Thiên).
Trở lên là nói về tráng chí, hoài bão và sự lịch duyệt, phần tiếp theo tác giả sẽ mô tả một cuộc du ngoạn cụ thể : cuộc chơi sông Bạch Đằng. Khác với cách miêu tả ở đoạn trên chủ yếu là tổng quát, ước lệ, không gian, thời gian đã tượng trưng hóa, ở đoạn này tác giả đi vào tả cảnh thực. Đó là : một không gian cụ thể {cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng, bãi chiến trường xưa) ; một thời gian được chỉ định rõ : tháng chín {ba thu) và một phong cảnh cụ thể : nước trời : một sắc, bờ lau san sát, bến lách đìu hiu, cùng những dấu vết của chiến trường được diễn tả một cách hình tượng, sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô. Phong cảnh Bạch Đằng cũng rất to rộng, hoành tráng song ảm đạm tiêu sắt và khách từ tâm trạng phơi phới, tràn đầy hào khí đã bị sự tác động mạnh của hoàn cảnh tỏ ra một tâm hồn phong phú và nhạy cảm : đứng sững, buồn tiếc ngậm ngùi :
Buồn vì thảm cảnh, đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu !
< 121
Như vậy, ở phần một này nhân vật lỉhácli được giới thiệu một cách trang trọng, là một nhân vật được khẳng định. Thực ra đó cũng là sự tự khẳng định, tự giới thiệu của chính tác giả : một tâm hồn thơ, một khách hải hồ nhưng đồng thời lại là một kẻ sĩ thiết tha với đất nước và lịch sử dân tộc.
Trận Bạch Đằng qua sự hồi tưởng của nhân vật tập thể các bô lão
Sự xuất hiện của nhân vật khách với trạng thái trầm tư có ý nghĩa như một cách đặt vấn đề, nêu câu hỏi và dẫn dắt đến sự xuất hiện của nhân vật tập thể các bô lão. Bằng vài nét phác họa tác giả đã gợi cho người đọc hình dung được những đặc điểm quan trọng về nhóm nhân vật này. Đó là một sô" đông đa dạng về tuổi tác. Có người đã rất già phải chông gậy, có người trẻ hơn, còn khỏe bơi được thuyền nhỏ, nhưng tất cả đều nhiệt tình, nhạy cảm và hiếu khách. Thấy khách “đứng lặng giờ lâu”, họ hiểu khách có điều đang băn khoăn liền thăm hỏi :
Bên sông bô lão, hỏi ý ta sở cầu.
Trương Hán Siêu không nhắc lại câu hỏi của khách, nhưng qua sự sốt sắng của các bô lão, qua phương thức nói chuyện của khách và các bô lão, người đọc có thể hình dung ra rất rõ chủ đề câu chuyện : các bô lão với tư cách người địa phương và rất có thể nhiều người đã là chứng nhân của trận Bạch Đằng oanh liệt đã dẫn khách thăm nơi chiến địa cũ và thuyết minh cho ông về mảnh đất lịch sử, kể cho ông nghe về chiến công Bạch Đằng buổi Trùng Hưng :
Có kẻ gậy lê chống trước, có người thuyền nhẹ bơi sau.
Vái ta mà thưa rằng :
Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt 0 Mã,
Củng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.
Với niềm tự hào về quê hương, về lịch sử, các bô lão đã hào hứng, sôi nổi kể lại trận đánh “đương khi ấy”. Đó là một trận đánh lớn, tầm cỡ, trực diện “mặt đối mặt” giữa hai đội quân hùng mạnh :
Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến lũy bắc nam chống đối.
Đó cũng là một trận đánh ác liệt, “kinh thiên động địa” :
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Tính chất ác liệt của trận đánh là do quy mô, lực lượng so sánh, do ý nghĩa trận đánh nhưng mặt khác cũng rất quan trọng là do sự đô"i đầu về ý chí của hai bên đô'i phương. Và chính ở trận Bạch Đằng này, quân nhà Trần cũng như quân Ngô Quyền trước đó đã phải đô"i đầu với một đội quân mưu sâu, chước quỷ hung đồ như vậy :
Kìa : Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối.
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.
Trận chiến quyết liệt, khó khăn, nhiều tổn thất, đến nỗi “sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”, đến nỗi bao nhiêu năm sau các nhà thơ qua đó đều vẫn có chung cảm giác nước sông còn loang máu đỏ :
Ánh nước chiều hôm màu đỏ khé,
Tưởng rằng máu giặc vẫn chưa khô.
(Trần Minh Tông - Bạch Đằng giang)
Bạch Đằng một cõi chiến tràng,
Xương bay trổng đắt máu màng đỏ sông.
(Đại Nam quốc sử diễn ca)
Đồng trụ đến nay rêu phủ biếc ;
Đằng giang tự cổ máu còn hồng.
(Khuyết danh)
Chính vì tính chất khó khăn, quyết liệt đó, mà hơn ai hết các bô lão hiểu rằng trận chiến thắng của dân tộc mình, của các bậc anh hùng đương thời là một trận thắng thuộc tầm cỡ những trận đánh lừng danh trong lịch sử, không chỉ đối với một quốc gia, không chỉ có ý nghĩa đối với một thời :
Khác nào như khi xưa :
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay.
Trận Hợp Phỉ, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay nước sông tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
Tái tạo công lao nghìn xưa ca ngợi.
Bình luận về chiến thắng sông Bạch Đằng
Theo binh pháp cổ, muôn thắng lợi trong chiến tranh cần phải có ba nhân tô' cơ bản : thiền thời, địa lợi, nhân hòa, nghĩa là được thời của trời (hợp, đúng thời cơ), được lợi thế của đất và được sự đồng lòng của người. Ớ đây cũng trên những nguyên tắc chung đó nhưng các bô lão chỉ rút lại có hai nhân tố : sự trợ giúp của trời và tài năng của những người chèo lái cuộc chiến. Sự trợ giúp của trời được thể hiện ở hai điểm quan trọng : “Trời củng chiểu người” và “Trời cho nơi đất hiểm”. Thiên Thái thệ trong Kinh thư, một kinh điển quan trọng của nho gia, có câu : “Thiền căng vu dân, dân chi sở dục, thiền tắc tòng chi” (nghĩa là : Trài thương dân, điểu dân muốn, trời sẽ theo). Như vậy trận đánh trên sông Bạch Đằng, nói rộng ra là cả cuộc kháng chiến chông quân Nguyên đã được sự trợ giúp của trời, cũng có nghĩa là nó đã bao gồm được cả ba nhân tố thiền thời, địa lợi, nhân hòa. Tuy nhiên, ở đây các bô lão còn nhấn mạnh thêm vai trò của con người, những người có tài, những nhân vật xuất chúng, đủ sức đảm đương gánh nặng mà đất nước giao phó. Đó là các bậc sánh với “Vương sư họ Lã" trong hội Mạnh Tân, với “Quốc sĩ họ Hàn” trong trận Duy Thủy và đặc biệt là Đại Vương Trần Quốc Tuâh, một người có tài thao lược, nhất là có tầm nhìn chiến lược đáng được muôn đời ngợi ca :
Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm đồn mãi, bia miệng không mòn.
Trong cuộc chơi sông Bạch Đằng hôm ấy, Trương Hán Siêu đã dựng lên hai khung cảnh ở hai thời gian khác nhau. Cảnh thứ nhát là Bạch Đằng lúc đương đại ; thiên nhiên vẫn hùng tráng, vẫn đẹp như “từ có vũ trụ" song đối với thế tình nó như đã nhuốm mùi dâu bể, như đã bị lãng quên, khiến cho một tâm hồn thơ như khách phải ngậm ngùi. Bạch Đằng đương đại là một cảnh sắc đượm tính trữ tình, đậm chất thơ. Cảnh thứ hai là một Bạch Đằng trong lịch sử, nó đã được sông dậy trong sự hồi tưởng của các bô lão, rất đậm tính chất anh hùng ca. Tuy nhiên, sau khi làm sống lại quá khứ say sưa và bình luận về quá khứ, những người ngày nay cũng đều phải trở về với thời đại và cương vị của mình. Cũng như khách, kết thúc những lời kể, các bô lão bộc lộ tâm trạng, tình cảm :
Hoài cổ nhân hề vẫn thế,
Lâm giang lưu hề hậu nhan.
Các bản dịch xưa nay đều coi hai chữ hậu nhan có nghĩa là rầu rầu nét mặt, nên nói chung thường dịch là :
Đến (hoặc khách} hên sông chừ ủ mặt,
Nhớ người xưa chừ lệ chan.
Song hai chữ hậu nhan có nghĩa gốc là dầy mặt, diễn tả trạng thái xẩu hổ thẹn thùng, vậy thì đúng ra hai câu thơ trên phải được dịch là :
Đến bên sông chừ hổ thẹn,
Nhớ người xưa chừ lệ chan.
Với tư cách là những người trong cuộc hoặc chứng nhân của mảnh đất lịch sử anh hùng này, các bậc bô lão thấy đau xót, hổ thẹn khi nó bị bỏ rơi đến nỗi dấu tích hào kiệt trở thành hoang phế, mộ phần người bỏ mình cho sự sông còn của dân tộc đã bị lẫn lộn trong đám “cốt khô đầy gò” ! Và hổ thẹn cũng có thể còn vì một lí do nữa, đó là nghĩ đến trách nhiệm kế nghiệp của mình với cha anh, những bậc anh hùng thời trước.
Cuộc chơi sông Bạch Đằng kết thúc, thực chất là sự trình bày về dòng sông lịch sử đã hoàn tất, bài phú được kết thúc bằng hai lời ca và thực sự đó là lời tổng luận của các bô lão và của khách. Nếu như các bô lão, những người dân bình thường, nhấn mạnh một lẽ đời mang tính chất quy luật, như nước sông cuồn cuộn chảy về biển cả, đó là :
Những người hất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.
thì khách, một thi nhân, một con người lịch duyệt và cũng là một “phương diện quốc gia” đã bổ sung thêm vai trò của hai vị thánh quân, nhấn mạnh đến cái “đức cao” mà một vị vua phải có để đem lại “muôn thuở thanh bình” cho trăm họ và cho hoàng tộc. Hơn thế nữa, trong quan niệm của khách, “đức cao” mới thực sự là điều kiện quyết định :
Tín tri : bất tại quan hà chi hiểm hề, duy tại ý đức chi mạc kình.
{Đúng là : chẳng tại non sông hiểm trở, chỉ tại đức cao không gỉ so sánh được').
Trong những áng thơ văn viết về trận thủy chiến Bạch Đằng, bài phú của Trương Hán Siêu là tác phẩm sớm nhất và cũng là một áng văn “không tiền khoáng hậu”. Sử dụng tính chất khoa trương của thể phú kết hợp với chất trữ tình của thơ, đặt trong kết cấu phú cổ thể có pha đôi thoại và liên ngâm, tác giả đã “chuyên chở” những ý tình của mình một cách rất sinh động. Có lẽ cũng không có mấy tác phẩm mà tính chất trữ tình và màu sắc anh hùng ca lại được hòa quyện nhuần nhuyễn và tinh tế đến như Bạch Đằng giang phú. Quả là đúng như sự đánh giá của Bùi Văn Nguyên : Bạch Đằng giang phú đã “khắc họa một cảnh trí mĩ lệ của Tổ quốc với cả hình bóng chiến công oanh liệt của quân dân ta thời trước”, là “một bài phú mẫu mực chẳng những thể hiện đậm nét hào khí Đông A của văn học đời Trần mà còn có giá trị to lớn trong lịch sử văn học nước nhà”.