Soạn bài Nhàn

  • Nhàn trang 1
  • Nhàn trang 2
  • Nhàn trang 3
  • Nhàn trang 4
  • Nhàn trang 5
NHÀN
Nguyễn Bỉnh Khiêm
A. KIẾN THỨC Cơ BẢN
Giới thiệu
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) hiệu là Bạch Vân cư sĩ, quê ở làng Trung Am, nay thuộc xã Lí Học, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng, đỗ trạng nguyên năm 1535, làm quan dưới triều Mạc. Ông làm quan, dâng sớ vạch tội và xin chém đầu mười mấy tên lộng thần. Vua không nghe, ông bèn xin cáo quan về quê, lập quán Trung Tân, dựng am Bạch Vân, lấy tên hiệu là Bạch Vân cư sĩ. Ông dạy học, học trò có nhiều người nổi tiếng, được đời tôn xưng là Tuyết Giang Phu Tử (Người thầy sông Tuyết). Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có học vấn uyên thâm. Vua Mạc cũng như các chúa Trịnh, Nguyễn có việc hệ trọng đều đến hỏi ý ông, ông đều có cách mách bảo kín đáo, nhằm hạn chế chiến tranh, chết chóc. Mặc dù cáo quan ở ẩn, ông vẫn tham vấn cho triều đình nhà Mạc và có tham gia dẹp loạn nên được phong tước Trình Quốc công, do đó mà có tên gọi là Trạng Trình.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của dân tộc. Ông để lại tập thơ chữ Hán Bạch Vân thi tập (khoảng 700 bài) và tập thơ chữ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi tập (khoảng trên 170 bài). Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm chất triết lí, giáo huấn, ngợi ca ý chí của kẻ sĩ, thú thanh nhàn, đồng thời phê phán những điều xấu xa trong xã hội.
Nhàn là bài thơ Nôm trích từ Bạch Vân quốc ngữ thi tập. Bài thơ làm theo thể thất ngôn bát cú.
Bài thơ ca ngợi cuộc sông thanh nhàn, qua đó toát lên vẻ đẹp nhân cách và trí tuệ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Đọc - hiểu văn bản
Vẻ đẹp cuộc sông thanh nhàn
Cuộc sống thuần hậu chất phác thể hiện ngay trong hai câu thơ đầu :
Một mai, một cuốc, một cần câu Thơ thẩn dù ai vui thú nào
Cụ Trạng về sông giữa thôn quê như một “lão nông tri điền”, với những công cụ lao động : cái mai để đào đất, cái cuốc để xới đất, cần câu để bắt cá. Cách dùng sô' từ tính đếm rành rọt : “Một..., một..., một...” cho thấy tất cả đã sẵn sàng, chu đáo.
Câu thơ như đưa ta trở về với cuộc sống chất phác nguyên sơ của cái thời “tạc tỉnh canh điền” (nước đào giếng, cơm cày ruộng). Cụ Trạng mà lại về với đời sống tự cung tự cấp thì cũng là một sự ngông ngạo trước thói đời. Ngòng ngạo mà không ngang, mà cứ thuần hậu nguyên thuỷ : Thơ thẩn dù ai vui thú nào. Chữ ai vốn để nói về người, ở đây lại nói về mình. Đọc lên nghe thật thú vị.
Cuộc sông bậc đại ’ẩn am Bạch Vân đạm bạc mà thanh cao :
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Sự đạm bạc là những thức ăn quê mùa, dân dã như măng trúc, giá đỗ. Các món ăn đạm bạc cây nhà lá vườn này là mình tự lo, là công sức của chính mình. Ăn đã vậy, còn ở, còn sinh hoạt ? Cũng tắm hồ, tắm ao như bao người dân quê khác.
Đạm bạc chứ không khắc khổ. Đạm đi với thanh. Cuộc sống thanh cao trong sự trở về với tự nhiên, mùa nào thức nấy. Hai câu thơ là một bộ tranh tứ bình về cảnh sinh hoạt với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông ; có mùi vị, có hương sắc. Không nặng nề, không ảm đạm. Thu ăn măng trúc, đông ăn giá, nói như Xuân Diệu là có cảm giác “ăn giá tuyết, uống băng đông”. Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao thì vừa có nước trong, vừa có hương thơm thanh quý.
Vẻ đẹp nhân cách
Tuyết Giang Phu Tử về với thiên nhiên, sông hòa thuận theo tự nhiên là thoát ra ngoài vòng ganh đua của thói tục, là không bị cuốn hút bởi tiền tài, địa vị, để tâm hồn an nhiên, khoáng đạt.
Nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm đô'i lập với danh lợi như nước với lửa :
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người đến chốn lao xao
Vắng vẻ đối lập với lao xao, ta đối lập với người. Ta tìm nơi vắng vẻ là tìm nơi không có người cầu cạnh ta và ta cũng không cầu cạnh người. Nơi vắng vẻ là nơi tĩnh tại của thiên nhiên và cũng là nơi thảnh thơi của tâm hồn. Người đến chốn lao xao là đến chôn cửa quyền, là đường hoạn lộ. Chốn lao xao, sang trọng thì có ngựa xe tấp nập, kẻ hầu người hạ, thủ đoạn thì có bon chen, luồn lọt, sát phạt.
Tìm đến sự thanh cao, tìm thấy sự thư thái của tâm hồn, Bạch Vân cư sĩ vui, niềm vui cất lên thành lời : Thơ thẩn dù ai vui thú nào. Niềm vui như hiện diện trong bước đi ung dung, thơ thẩn. Niềm vui chi phối cả âm điệu bài thơ, cứ nhẹ nhàng, cứ lâng lâng, cứ thanh thản, thoải mái một cách kì lạ.
Vẻ đẹp trí tuệ
Trạng Trình là một bậc thức giả với trí tuệ vô cùng tỉnh táo. Tỉnh táo trong sự chọn lựa : Ta dại ta tỉm nơi vắng vẻ, mặc cho người khôn người đến chốn lao xao. Tỉnh táo trong cách nói đùa vui, ngược nghĩa, dại mà thực chất là khôn, còn khôn mà hoá dại. Ở một bài thơ khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm viết :
Khôn mà hiềm độc là khôn dại Dại vốn hiền lành ấy dại khôn
(Thơ Nôm - Bài 94)
Như vậy thì dại, khôn ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là xuất phát từ trí tuệ, từ triết lí dân gian : Ớ hiền gặp lành, ở ác gặp ác.
Trạng Trình là bậc triết gia với trí tuệ uyên thâm. Bậc đại trí này nắm vững lẽ biến dịch, hiểu thấu quy luật hoạ / phúc, bĩ / thái, cùng / thông, táng / đắc. Vì vậy mà có nhãn quan tỏ tường. Với cái nhìn thông tuệ thì tìm đến say chỉ là để tỉnh :
Rượu đến cội cây ta sẽ uống Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao
Cuộc sông nhàn dật này là kết quả của một nhân cách, một trí tuệ. Trí tuệ nhận ra công danh, của cải quyền quý chỉ là giấc chiêm bao. Trí tuệ nâng cao nhân cách để nhà thơ từ bỏ chốn lao xao quyền quý đến nơi vắng vẻ đạm bạc mà thanh cao.
Chữ nhàn trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm là cùng dòng với chữ nhàn của Chu Văn An, Nguyễn Trãi. Những bậc đại hiền này nhàn thân mà không nhàn tâm. Nó khác xa lối sống nhàn độc thiện kì thân (làm tốt cho riêng mình).
Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là sông nhàn nhã, trôn tránh vất vả, cực nhọc về thể chất. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhàn không phải là quay lưng với xã hội, chỉ lo cho cuộc sông nhàn tản của bản thân. Nhàn là xa lánh nơi quyền quý, danh lợi mà tác giả gọi là chốn lao xao. Nhàn là sông hoà hợp với tự nhiên, Thu ăn măng trúc, đông ăn giá - Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao, về với tự nhiên để di dưỡng tinh thần. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn thân mà không nhàn tâm, nhàn mà vẫn canh cánh nỗi niềm ưu ái (ới quốc ưu dân - yêu nước lo dân). Đặt trong hoàn cảnh xã hội phong kiến có những biểu hiện suy vi về đạo đức thì quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang những yếu tô' tích cực.
Tổng kết
Bài thơ như lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, khẳng định quan niệm sống nhàn là hòa hợp với tự nhiên, giữ cốt cách thanh caọ, vượt lên trên danh lợi.
B. ĐỀ VÂN LUYỆN TẬP
Đề : Triết lí nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ “Nhàn”.
BÀI VIẾT GỢI ý
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam : Lê - Mạc xưng hùng, Trịnh - Nguyễn phân tranh. Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến, ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân, vừa bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân tình thế thái, băng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.
Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ quan niệm sông của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí của nhân dân, thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên.
Nhàn là cách xử thế quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thoát tục, tìm vui trong thiên nhiên cây cỏ, giữ mình trong sạch. Hành trình hưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong quy luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy.
Cuộc sông nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị :
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dù ai vui thú nào.
Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong cái bận rộn giông như một lão nông thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa thú hưởng nhàn cao quý của nhà nho tìm về cuộc sông “ngư, tiều, canh, mục” như một cách đốì lập dứt khoát với các loại vui thú khác, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao tuyệt đối từ cuộc sông đậm chất dân quê này ! Dáng vẻ thơ thẩn được phác hoạ trong câu thơ thật độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc, cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sông không vướng bận lo toan tục lụy. Đằng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sông của riêng mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sông của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền.
Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sông khác người đầy bản lĩnh :
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao.
Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai, những vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đôi cực chuẩn đã tạo thành hai đô'i cực : một bên là nhà thơ xưng ta một cách ngạo nghễ, một bên là người ; một bên là dại của ta, một bên là khôn của người ; một nơi vắng vẻ với một chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng định cho thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định nghĩa dại - khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại - khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại - khôn là thói thực dụng ích kỉ làm tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa giữa chốn lao xao. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ - không vướng bụi trần. Nhưng không giông lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở xưa "Người đời tỉnh cả, một mình ta say" đầy u uất, Trdng Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân quân tử không bận tâm những trò khôn - dại. Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sông nhàn tản :
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đấm mình trong bả vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lòng hoà hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận riêng tư. Cuộc sông ấy mang dấu ấn lánh đời thoát tục, tiêu biểu cho quan niệm "độc thiện kì thân" của các nhà nho, đồng thời có nét gần gũi với triết lí "vô vi" của đạo Lão, "thoát tục" của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoà hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lòng mình. Không những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử, sông không hổ thẹn với lòng mình. Hoà hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang Phu Tử đang sông đúng với thiên lương của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng định :
Rượu đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bĩnh Khiêm đã nói lên thái độ sông dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gắn với đạo Lão - Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sông lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sông của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình :
O thế mới hay người bạc ác,
Giàu thì tìm đến, klió thì lui.
(Thói đời)
Phú quý đi với chức quyền đô'i với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lốn gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong hài thơ Tăng thử (Ghét chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ chọn lựa con đường sông gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sông đạm bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như giữ cho nhân cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành vững tốt đẹp của nhân dân.
Bài thơ Nhàn bao quát toàn bộ triết lí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đôì lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con đường suy vi thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sông, bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính.