Soạn bài Trao duyên (Trích truyện Kiều)

  • Trao duyên (Trích truyện Kiều) trang 1
  • Trao duyên (Trích truyện Kiều) trang 2
  • Trao duyên (Trích truyện Kiều) trang 3
  • Trao duyên (Trích truyện Kiều) trang 4
  • Trao duyên (Trích truyện Kiều) trang 5
  • Trao duyên (Trích truyện Kiều) trang 6
  • Trao duyên (Trích truyện Kiều) trang 7
  • Trao duyên (Trích truyện Kiều) trang 8
  • Trao duyên (Trích truyện Kiều) trang 9
  • Trao duyên (Trích truyện Kiều) trang 10
TRAO DUYÊN
(Trích “Truyện Kiều”)
Nguyễn Du
A. KIẾN THỨC Cơ BẢN
Giới thiệu
1. Bọn sai nha gây nên vụ án oan sai đối với gia đình Thúy Kiều, nàng buộc phải hi sinh mô'i tình với Kim Trọng, bán mình lấy tiền đút lót cho bọn sai nha để cứu cha và em khỏi đòn tra khảo dã man của chúng. Việc bán mình đã thu xếp xong xuôi, Kiều ngồi trắng đêm nghĩ đến thân phận và tình yêu rồi nhờ em gái là Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng.
Đoạn “Trao duyên”, trích từ câu 723 đến câu 756 trong “Truyện Kiều”, là lời của Thúy Kiều nói cùng Thúy Vân.
Sau khi đã giải quyết xong việc bán mình (Tờ lioa đã kí, cân vàng mới trào'), lấy tiền lo lót cho xong vụ kiện (Họ Chung ra sức giúp vì - Lễ tân đã đặt, tụng kì cũng xong), Kiều đang chờ lên xe hoa theo Mã Giám Sinh. Đêm ấy, Kiều bồi hồi thương cho Kim Trọng, tìm cách trả nghĩa nợ tình cho chàng. Đèn thắp sáng đêm, nước mắt đầm đìa. Nhân Thuý Vân thức dậy hỏi, Kiều bấy giờ mới cậy em thay lời và trao duyên cho em. Đây là đoạn thơ trữ tình bậc nhất trong Truyện Kiều. Trước đây Tản Đà từng nhận xét : “Trong cả quyển Kiều, văn tả tình không mấy đoạn dài hơn như vậy. Đoạn này thật lâm li, mà như thế mới hết tình sự’.
II. Đọc - hiểu văn bản
Thúy Kiều nói lời trao duyên
Nếu nói Nguyễn Du là nghệ sĩ tài hoa bậc thầy về miêu tả tâm lí nhân vật thì đoạn này là đoạn thơ tiêu biểu nhất, thần tình nhất, khiến cho các nhà phân tích bình giảng trước nay không hết lời thán phục và ca ngợi. GS Lê Trí Viễn đã có những lời phân tích bình phẩm thấu đáo nhất đốì với hai câu thơ sau đây. Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du viết :
Cậy em, em có chịu lời
Tại sao lại dùng “cậy” mà không dùng “nhờ”, giáo sư Lê Trí Viễn giải thích ngoài lí do thanh điệu “trắc”, gây một điểm nhấn lắng đọng cho câu thơ, còn vì chữ “cậy” bao hàm cái ý hi vọng tha thiết của một lời trối trăng, có ý nương tựa, gửi gắm, tin tưởng nơi quan hệ ruột thịt. Nếu dùng “nhờ” thì bâỳ nhiêu nghĩa sẽ nhạt hết. Còn nói “chịu” mà không nói “nhận” thì cũng như vậy : “chịu” lời là một sự bắt buộc, còn “nhận” thì tuỳ lòng, mà trong trường hợp này Kiều muốn em không được từ chối đề nghị của mình. Lời lẽ thắt buộc được lựa chọn thật là chính xác, chặt chẽ.
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Cái yêu cầu em ngồi lên để Kiều lạy trước, thưa sau cũng là một ý nài ép như vậy. Nhưng bây giờ lại dùng lễ nghi để ràng buộc. Lời thưa rất trang trọng, ràng buộc nội dung nghiêm trang, trịnh trọng sẽ nói ở sau. Vừa tình vừa lễ như vậy thì Vân chối sao đặng ?
Lời thưa của Thuý Kiều rất rõ ràng, vắn tắt, dứt khoát :
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Người xưa xem tình yêu là một nghĩa vụ, gánh nặng, cho nên nói gánh tương tư. Mà giữa đường đứt gánh thì dang dở vô cùng. Hình ảnh thơ đã nói rõ tình trạng bất lực của Thuý Kiều. Mọi việc phó thác cho em gánh. Thuý Kiều hiểu thấu cảm giác và tình cảnh thiệt thòi của em nên nói thẳng ra. “Mặc em”, có nghĩa là phó mặc cho em đó, dở hay gì em cũng phải gánh vác cho chị. Câu nói này cũng mang giọng điệu người chị phó thác cho em nữa, cho nên có nhiều sức nặng. Bốn câu thơ đã nói hết tình trông cậy, uỷ thác và nài ép, không cho em từ chối.
Nhờ cậy xong Kiều mới nói lí do :
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đèm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai ?
Nội dung thông báo cụ thể, rõ ràng, nhưng sự trùng điệp ba chữ “khi” (khi gặp, khi ngày, khi đêm) đã nói lên sự thề ước nhiều lần sâu nặng, không thể nuốt lời, nên phải nhờ em.
Từ đây, Kiều chuyển sang phân tích ý nghĩa :
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn tham lây.
Tuổi trẻ của em còn dài, vì thương chị mà thay chị nối tình với Kim Trọng thì chị dẫu chết cũng hả dạ. Nhưng điều đặc biệt là từ đây trở đi Kiều coi mình như đã chết. Câu “Ngày xuân em hãy còn dài” cũng có nghĩa là ngày xuân của chị đã hết rồi, chị chỉ còn “thịt nát xương mòn” và “ngậm cười chín suối”.
Thúy Kiều trao kỉ vật
Nói xong lời thoả nguyện bình sinh và hàm ơn đối với em, Kiều trao vật kỉ niệm: Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thỉ giữ vật này của chung.
Chiếc vành (chiếc xuyến) là tặng vật Kim Trọng tặng cho Kiều khi nàng nhận lời : “Xuyến vàng đôi chiếc khăn là một vuông”. Tờ mây là tờ hoa tiên có vẽ vân mây, trên đó Kim - Kiều đã ghi lời thề nguyền. Lạ nhất là câu tiếp theo : “Duyên này thì giữ, vật này của chung”. Nhiều nhà bình luận Truyện Kiều đã nói rất đúng : Kiều trao duyên chứ không trao tỉnh. Duyên đây là nhân duyên, duyên phận, cơ duyên, tức là sự run rủi của số phận cho hai người trai gái được lấy nhau. Nhưng vật kỉ niệm này là của chung - lời lẽ có vẻ như là Kiều còn muôn giữ lại cho mình, không muốn trao cả cho em. Nhưng xét cho kĩ thì Kiều đã nói đúng. Kiều trao kỉ vật, nhưng còn cái hồn của kỉ vật - tức mối tình trao gửi nơi đầu mày cuối mắt, cái ngất ngây, nồng nàn, lời thề dưới trăng thì làm sao trao ? Nó thuộc về quá khứ, chôn sâu trong trái tim Kiều, cho nên chỉ có thể là của chung.
Nhưng kỉ vật này cũng không phải chỉ là kỉ vật tình yêu của hai người : xưa là của Kiều và Kim, nay thành của Kim và Vân. Từ nay, nó còn là kỉ vật làm tin nhắc nhớ đến chị nữa đó, để em có được hạnh phúc thì cũng đừng quên chị :
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím dàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Cây đàn ngày nào Kiều đàn cho Kim Trọng, và mảnh trầm hương ngày nào từng chứng kiến lời thề nguyền cũng để lại cho em như là của tin. Đốì với chị
chúng cũng đã trở thành quá khứ xa xôi rồi. Đến đây, Kiều lại thấy mình như là người đã chết :
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò liưcmg ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Kiều đã mất hết hiện tại. Tương lai của nàng trông chờ vào lòng thương. Mai sau em đốt hương, đánh đàn - những lúc hạnh phúc, em hãy nhớ đến chị. Cái cách hình dung oan hồn bơ vơ của mình nơi mai hậu thật là thê thảm : Kiều sau này chỉ còn là một ngọn gió vật vờ nơi lá cây ngọn cỏ. Còn gì có thể gây lòng thương cảm hơn là gợi lên những hình ảnh của hư vô ? Kiều lúc ấy đã chết, nàng chỉ còn có oan hồn, nhưng xin nhớ cho :
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghi trúc mai.
Kiều mang nặng lời thề, dù có tan nát tấm thân bồ liễu, nàng cũng quyết đền ơn đáp nghĩa cho Kim Trọng. Lúc bấy giờ chị và em đã là người của hai thế giới khác nhau :
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rảy xin chén nươc cho người thác oan.
Dạ đài là nơi âm phủ tăm tối, em sẽ không trông thấy chị. Em hãy rảy một chén nước cho người thác oan là chị. Kiều tuy tự nguyện hi sinh, bán mình chuộc cha, nhưng vẫn ý thức mình bị oan uổng, sau khi chết hồn vẫn không tan. Theo niềm tin tôn giáo cổ truyền thì nước trong tinh khiết có thể tẩy rửa nỗi oan khuất, làm cho oan hồn được mát mẻ.
Từ khi trao vật kỉ niệm cho đến giờ, Kiều như quên hẳn hiện tại, nàng chỉ sống với cái mai hậu hư vô của mình, vì nàng hi vọng em và chàng Kim sau này được hạnh phúc, và mai đây nàng sẽ được thương đến. Hiện tại thì nàng chỉ là con số không :
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Ta duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi !
Nhìn lại hiện tại, Kiều chỉ thấy mất mát. Trâm gãy gương tan là hình ảnh của tình duyên tan vỡ, là một lời kêu than, một lời tiếc nuôi. Bao nhiêu ái ân hò hẹn thế là đã hết ! Kiều tự thấy có lỗi rất lớn với Kim Trọng, cho nên gửi lại chàng trăm lạy, nghìn lạy.
Từ câu Bây giờ trâm gãy gương tan, Kiều như chỉ hói với mình và Kim Trọng, nàng quên hẳn Thuý Vân trước mặt mình, cũng giống như trước đó, nàng sống hẳn trong thế giới hư vô của mai sau.
Những câu cuối cùng mới tột cùng đau đớn :
Phận sao phận bạc nịiư vôi !
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim lang ! Hỡi Kim lang Ị Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây !
Đó là lời oán trách, lời cật vấn số phận vô lí, nhung nàng phải chấp nhận số phận : “Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Nước chảy hoa trôi là cảnh xuân đã hết, hoa rụng, tuyết tan, hoa theo nước mà nổi trôi, phiêu dạt. Kiều như thấy mình cũng là cành hoa lìa cành, mặc dòng nước trôi, không làm chủ được mình nữa.
Lời trao duyên như một lời trăng trôi, vĩnh biệt. Trước lời trao là tình của mình, sau khi trao mình đã trắng tay. Trước khi trao mình là người sông, sau khi trao mình cầm bằng như đã chết, chỉ còn hồn oan, chín suối, dạ đài, ngọn gió. Trước khi trao Kiều sông với hiện tại, khi trao Kiều vừa sống với quá khứ vừa sông với hiện tại. Nhưng khi trao xong Kiều chỉ sông với tương lai hư vô. Trạng thái tâm lí phức tạp thể hiện qua ngôn ngữ của Kiều, khi thì đối thoại, khi thì độc thoại, khi thì nói với người trước mặt, khi thì nói với người vắng mặt. Toàn bộ đoạn thơ là nỗi lòng đau đớn tan nát thê thảm nhất. Con chim sắp chết thì tiếng kêu thương. Mối tình sắp mất thì lời thê thảm. Đây đúng là đoạn thơ lâm li nhất trong Truyện Kiều.
Tổng kết
Đoạn trích thể hiện bi kịch của tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều, đồng thời cho thấy tài năng miêu tả nội tâm nhân vật của Nguyễn Du.
B. TƯ LIỆU THAM KHẢO
THÚY KIỀU, CON NGƯỜI CỦA HIỆN THựC KHổ ĐAU,
CON NGƯỠI CỦA VẬN MỆNH BI KỊCH
Mộng Liên Đường chủ nhân đã khái quát về thân thế Thúy Kiều : “Khi lai láng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc ; khi duyên ưa kim cải non biển thề bồi ; khi đất nổi ba đào, của nhà tan tác ; khi lầu xanh, khi rừng tía cõi đi về nghĩ cũng chồn chân ; khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải nghĩ càng tè lưỡi..”. Thúy Kiều đã trải qua hầu hết những đau khổ của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến : gia đình li tán, tình yêu tan vỡ, làm gái thanh lâu, làm nô tì, làm vợ lẽ, tu hành bất đắc chí, và rồi cuộc đời hầu hết không chồng, không con giữa 30 tuổi xuân.
Nhân vật Nguyễn Du là một con người luôn luôn có ý thức về “kiếp đoạn trường” của bản thân, nhưng đồng thời, luôn luôn hướng tới ánh sáng của hạnh phúc, Thúy Kiều chỉ từ bỏ thiên hướng này khi cuộc sống phủ định nguyện vọng của nàng.
Vận mệnh và tính cách có màu sắc bi kịch này quán xuyến nội dung tác phẩm : khắp Truyện Kiều phảng phất không khí buồn ; quán xuyến kết cấu tác phẩm : trong hệ thông “Hội ngộ - Tai biến - Đoàn tụ” Nguyễn Du dành phần lớn tác phẩm để viết về quãng đời “Tai biến” của Kiều, và trong toàn bộ tác phẩm, kể cả những giây phút đính ước, tình tự của phần “Hội ngộ”, hay trở về với người yêu trong phần “Đoàn tụ”, hạnh phúc của nàng không bao giờ trọn vẹn ; quán xuyến hình tượng nhân vật : Thúy Kiều luôn luôn sống trong tâm trạng bi kịch.
Nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, tài đàn tuyệt diệu và tài thơ mẫn tiệp của nàng rút cục cũng chỉ để “đem bán vào thuyền lái buôn”. Sự chà đạp lên tài hoa, nhan sắc con người là một tội ác của chế độ phong kiến, nhưng nếu quan niệm mâu thuẫn chủ yếu trong Truyện Kiều là mâu thuẫn giữa trí đức và tài năng với chế độ như ý kiến sau đây : “Mâu thuẫn giữa chê' độ xã hội bất công với tài năng của con người là một mâu thuẫn tuyệt đối... Nguyễn Du đã diễn tả mâu thuẫn đó một cách hệ thống từ mở đầu Truyện Kiều cho đến cuối".
... “Bao giờ còn chế độ xã hội bất công, nhất là ở giai đoạn suy vong của chế độ này, tài hoa chỉ là một mối hận hết sức thê tliảm. Đó là cảm hứng chủ đạo nhất, sâu sắc nhất, bi thiết nhất của Nguyễn Du"... có lẽ cũng có phần cần bàn bạc.
Bởi vì nổi bật trên tất cả kiếp đoạn trường và nỗi đoạn trường là sự chà đạp lên hạnh phúc tình yêu và ước mơ công lí của người phụ nữ nhan sắc, tài hoa, đa sầu, đa cảm và hết sức vị tha này. Nói một cách khác, Nguyễn Du đặc biệt chú trọng trình bày, miêu tả mâu thuẫn sâu sắc giữa khát vọng hạnh phúc của con người bị áp bức với những thế lực xấu xa, tàn bạo của chế độ phong kiến.
“Giữa đường đứt gánh tương tu?’ - vì hạnh phúc gia đình, vì vận mệnh cha và em, Kiều hi sinh hạnh phúc cá nhân. Đó là lí tưởng đạo đức và cũng là một phương diện hạnh phúc của đời nàng (Cỗi xuân tuổi hạc càng cao - Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành... Thà rằng liều một thân con - Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây) nhưng vì đây chỉ là một phương diện của hạnh phúc nên Kiều tiếp tục đi vào một bi kịch khác. Thúy Kiều, con người của một thời đại đã có ý thức sâu sắc hơn, phong phú hơn về đau khổ cũng như về khát vọng của mình, không thể đơn giản chấp nhận chỉ một phương diện nào của hạnh phúc. Ngoài hạnh phúc gia đình, nàng còn sôìig với khát khao tình yêu tuổi trẻ. Ngoài tình thương cha mẹ, hai em, còn tình yêu với chàng Kim. Vì giữa cái tuổi mười sáu, với một nhan sắc khuynh thành, một tài hoa rực rỡ, một trái tim nồng nàn, nàng đã gặp Kim Trọng — chàng trai “phong tư tài mạo tuyệt vời"... Nói một cách khác, Thúy Kiều đã đối diện hạnh phúc. “Kể từ khi gặp chàng Kim" nàng đã sông trong hương vị ngây ngất ngọt ngào của giờ phút “Chập chờn can tỉnh cơn mè” ban đầu, của những sớm chiều tình tự “Đủ điều trung khúc ân cần - Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng", và nhất là buổi hôm kì diệu :
... Nhặt thưa gương giọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng quỳnh hắt hiu.
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê...
Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Bâng kliuâng đỉnh Giáp non Thần,
Còn ngờ giác mộng đêm xuân mơ màng...
Buổi hôm kì diệu với tình yêu đắm đuối nồng nàn :
... Hoa hương càng tỏ thức hồng,
Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu...
Làm sao có thể chôn vùi trong tim đang độ sôi nổi mổỉ tình đầu nên thơ sâu sắc ấy !
Tai biến ập đến. Thúy Kiều đã đi theo con đường quen thuộc của những thiếu nữ gặp ngang trái trong tình duyên xưa kia :
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Giông như Nhụy Châu đã nhờ cô thị nữ tin yêu thay mình trả nghĩa Song Tinh khi nàng bị gian thần hãm hại đem đi công Phiên :
Mai sau chàng có về đây,
Duyên xưa tác hợp cậy mày thế tao.
(Truyện Song Tinh)
Và chữ “Nghĩa” theo quan niệm phong kiến kia tưởng đâu sẽ là một bài thuốc hiệu nghiệm :
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Nhưng không, Kiều thấu hiểu rằng không ai có thể thay thế nàng trong trái tim yêu đương của chàng Kim, cho dù người đó là em gái mình đi chăng nữa... Nàng tiếp tục rơi vào một bi kịch khác :
Dù em nên vạ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Nàng vẫn là con người của bi kịch. Là bởi vì như nhiều người bình luận Truyện Kiều đã viết, trong môi quan hệ với chàng Kim, bao giờ Nguyễn Du cũng dành cho chị chữ “Tình” và cô em chữ “Duyên” :
Duyên em dù nối chỉ hồng,
May ra khi dã tay bồng tay mang.
Tình duyên ấy, hợp tan này,
Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao.
Khi ăn ở, lúc ra vào,
Càng âu duyên mới, càng dào tình xưa.
Cũng như các bè bạn cùng thế hệ, Thúy Kiều những mong đem chữ “Nghĩa” đền đáp người yêu, nhưng tự chiều sâu của đáy lòng, nàng hiểu rằng không bao giờ mối nhân duyên ấy có thể là hạnh phúc trọn vẹn của chàng Kim (Nỗi nàng nhớ đến bao giờ - Tuôn châu đòi trận, vò tơ trăm vòng ; Nghe tường ngành ngọn tiêu hao - Lòng riêng chàng luống lao đao thẫn thờ..}. Và Kiều nữa, cho dù “Chân trời góc bể ba vơ - Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”, chữ “Nghĩa” không hồn không thể giúp nàng “ngậm cười chín suối” như Kiều đã nói với Vân.
Tình gia đình, nghĩa nàng Vân không thể tiêu diệt hoàn toàn đau khổ. Tan vỡ đột ngột, tàn khốc, đối lập với tình yêu sâu xa, mãnh liệt, và khát vọng hạnh phúc lứa đôi, là cái nền mâu thuẫn chủ yếu của nội tâm nhân vật trong phần mở đầu “Tai biến”. Một cô Kiều, vì hoàn cảnh phải vĩnh viễn chia lìa với người yêu nhưng không từ bỏ, không phủ định khát khao hạnh phúc yêu đương. Và Kiều gắng gượng giải quyết bi kịch trong tâm hồn để rồi rút cục, bất lực không giải quyết nổi.
Mai sau, trong hạnh phúc Kim Trọng, nàng không hiện diện. Nàng ước nguyện : Mất người còn chút của tin,
Plúm đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Nàng sẽ để lại những kỉ vật thân thiết của một quá vãng tươi đẹp. “Ngày xưa” đối với Kim Trọng mai sau mà cũng là “ngày xưa" đối với Kiều hiện tại : hạnh phúc rực rỡ đột ngột tan tành thảm khốc, những giây phút tươi đẹp mới mẻ đã trở thành một ảo ảnh vô cùng xa xôi. Thời gian siêu hiện thực biểu hiện tâm trạng tiếc hận đớn đau ghê gớm trong lòng Thúy Kiều. Trong Truyện Kiều cho dù đó là mấy ngày, hay mười lăm năm trường trôi qua, tất cả đều chỉ là quá vãng xa xăm :
... Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
... Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa.
... Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ.
Nhưng kỉ vật đâu phải là con người. Kỉ vật không thể giải quyết niềm thương nỗi nhớ. Và Kiều khao khát trở về gặp mặt người yêu, cho dù ước vọng ấy cũng hết sức mong manh :
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Trong toàn bộ Truyện Kiều, ngày trở về của người yêu, ngày tái hợp của đôi lứa thanh niên bao giờ cũng chỉ là những tháng năm mong manh vô định biểu hiện dưới dạng thái những từ ngữ phiếm chỉ :
... Trùng phùng dẫu họa có khi,
... Mai sau dù có bao giờ,
... Biết bao giờ lại nối lời nước non.
Ước mơ bao hàm tuyệt vọng. Và sự hiển hiện ấy, nếu có, cũng chỉ là một ảo ảnh, một hạnh phúc siêu hình. Một cuộc trở về mà không có gặp gỡ. Thêm vào đó, một ràng buộc não nùng day dứt :
... Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghi trúc mai.
Một lời thề chưa được giải đáp ! Cái hạnh phúc “nguyện ước ba sinh” nhà Phật đưa ra để an ủi xoa dịu con người chính cũng vò xé lòng người trong bi kịch nặng nề, vì đằng sau lời thề của Kim Trọng - Thúy Kiều, thực chất là tình yêu sâu nặng, là khát vọng hạnh phúc mãnh liệt. Con đường Thúy Kiều đi không hoàn toàn là con đường của chàng trai trong bài vè cổ về câu chuyện Trương Chi :
Anh Trương Chỉ khỉ trở ra về,
Cắm sào cho chặt hát thề một câu :
“Kiếp này đã dở dang nhau,
Thì xin kiếp khác duyên sau lại thành”.
Kiều chờ đợi một kiếp sau sum họp nhưng làm sao nàng có thể hình dung, có thể khẳng định hạnh phúc kiểu siêu hình ấy một khi nàng đã là người của cõi chết, cách biệt tuyệt đối với người yêu thuở trước :
... Dạ đài cách mặt khuất lời...
Đến đây, Kim Trọng sẽ phải làm như Mị Nương, rỏ một giọt lệ cảm thông trên bóng hình đau khổ của Trương Chi, hay như chàng trai trong Tình sử, tuôn châu xuống trái tim uất kết của người yêu đã khuất :
... Rảy xin chén nước cho người thác oan.
Tình sử và câu chuyên Trương Chi chấm dứt ở đây. Oan hồn Trương Chi hiển hiện trên chén ngọc hay trái tim không tan của người vợ trong Tình sử đã do đồng cảm của người tình mà tiêu tan. Nhưng với Nguyễn Du, với Thúy Kiều, mâu thuẫn không hề được giải quyết. Nàng làm sao thể nghiệm được sự đồng cảm ấy, khi nó chỉ là ảo giác của mai sau... Làm sao Kiều có thể tự ru ngủ trong một giấc mộng mơ hồ, ảo giác như vậy ! Và “sức cảm thông lạ lùng của nhà đại thi hào dân tộc” (Hoài Thanh) đốì với con người thời đại đã đưa Thúy Kiều quay trở về với hiện tại phũ phàng :
Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Ớ đây là mâu thuẫn giữa mốì tình vô hạn sâu sắc và khát vọng hạnh phúc vô hạn mãnh liệt “muôn vàn ái ân”, với một sự đổ vỡ không gì có thể cứu vãn nổi (trâm gãy bình tan, tơ duyên ngắn ngủi, phận bạc như vôi, nước chảy hoa trôi, thiếp đã phụ chàng).
Mâu thuẫn không được giải quyết. Bản chất hạnh phúc không tồn tại nơi chữ “Hiếu”, chữ “Nghĩa” theo quan niệm phong kiến ! Và những quan niệm hạnh phúc siêu hình (kỉ vật, kiếp sau sum họp, giọt lệ cảm thông) hoàn toàn không thể xoa dịu khổ đau của người thiếu nữ có trái tim nồng nàn sôi nổi như Thúy Kiều.
Có thể nói, tâm trạng Kiều đứng trước mọi đổ vỡ của hạnh phúc, thể hiện sự đấu tranh giữa những quan niệm về hạnh phúc - những quan niệm hạnh phúc của Nho gia, của Phật giáo và những quan niệm hạnh phúc có màu sắc nhân đạo chủ nghía. Thúy Kiều chỉ tìm đến những quan niệm hạnh phúc siêu hình khi hoàn cảnh ràng buộc :
Nàng từ lánh gót vườn hoa,
Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng.
Nhân duyên đâu lại còn mong,
Khỏi điều thẹn phấn tủi hồng thì thôi.
Và tìm đến nhưng để rồi phủ định, từ bỏ như ở đoạn “Trao duyên”. Cũng như sau này, tâm trạng “sự đời đã tắt lửa lòng”, cách xử lí “đem tỉnh cầm sắt đổi ra cầm cờ” chẳng qua cũng đều do biến động của hoàn cảnh. Nàng không thể là một sư nữ “chân tu”. Sẽ không bao giờ Thúy Kiều “đắc đạo”.
Nói một cách khác, Thúy Kiều đã được giải phóng khỏi những quan niệm siêu hình, tôn giáo về hạnh phúc. Nhân vật của Nguyễn Du là con người được thức tỉnh, dù chỉ để khổ đau. Thúy Kiều là con người của bi kịch. Hạn chế và giá trị của tính cách nhân vật cũng đều bao hàm trong yếu tố đó.
Đặng Thanh Lê