Soạn bài Đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết

  • Đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết trang 1
  • Đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết trang 2
  • Đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết trang 3
  • Đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết trang 4
ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÔN NGỮ NÓI VÀ NGÔN NGỮ VIẾT
Đặc điểm của ngôn ngữ nói
Ngôn ngữ nói là ngôn ngữ âm. thanh, là lời nói trong giao tiếp tự nhiên hàng ngày, trong đó người nói và người nghe tiếp xúc trực tiếp với nhau, có thể thay phiên nhau trong vai nói và vai nghe.
Ngôn ngữ nói rất đa dạng về ngữ điệu. Ngữ điệu là yếu tố quan trọng góp phần bộc lộ và bổ sung thông tin. Đồng thời trong ngôn ngữ nói còn có sự phối hợp giữa âm thanh, giọng điệu với các phương tỉện bổ trợ như nét mặt, ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ,... của người nói.
Trong ngôn ngữ nói, từ ngữ được sử dụng khá đa dạng, có những lớp từ ngữ mang tính khẩu ngữ, có cả những từ ngữ địa phương, các tiếng lóng, các biệt ngữ, các trợ từ, thán từ, các từ ngữ đưa đẩy, chêm xen,... về câu, ngôn ngữ nói thường dùng các hình thức tỉnh lược, thậưi chí chỉ còn một từ (nhất là trong đối thoại) nhưng nhiều khi câu nói lại rườm rà, nhiều yếu tô" dư thừa, trùng lặp 186
X, ro
vì lời nói được sản sinh nhanh chóng, tức thời, không có sự gọt giũa, hoặc do người nói cô ý lặp lại để người nghe có điều kiện tiếp nhận, lĩnh hội thấu đáo nội dung giao tiếp.
Cần phân biệt nói và đọc (thành tiếng) một văn bản. Đọc (thành tiếng) cũng phát ra âm thanh để mọi người nghe, nhưng lệ thuộc vào văn bản đến từng dấu chấm, dấu phẩy. Cho nên đọc chỉ là hành động phát âm một văn bản viết, nhưng người đọc cô' gắng tận dụng những ưu thế của ngôn ngữ nói (ngữ điệu) để diễn cảm.
Đặc điểm của ngôn ngữ viết
Ngôn ngữ viết được thể hiện bằng chữ viết trong văn bản và được tiếp xúc bằng thị giác. Cho nên muốn viết và đọc văn bản, cắ người viết và người đọc phải biết các kí hiệu chữ viết, các quy tắc chính tả, các quy cách tổ chức văn bản. Mặt khác, khi viết, người viết có điều kiện suy ngẫm, lựa chọn, gọt giũa ; còn khi đọc (do chữ viết được lưu giữ ổn định) người đọc có điều kiện đọc lại, phân tích, nghiền ngẫm để lĩnh hội thấu đáo. Cũng nhờ sự ghi chép bằng chữ trong văn bản mà ngôn ngữ viết đến được với đông đảo người đọc trong phạm vi không gian rộng lớn và thời gian lâu dài.
Ngôn ngữ viết tuy không có ngữ điệu và sự phôi hợp của các yếu tô' hỗ trợ như nét mặt, cử chỉ, điệu bộ nhưng nó được sự hỗ trợ của hệ thông dấu câu, của các kí hiệu văn tự, của các hình ảnh minh họa, các bảng biểu, sơ đồ,...
Trong ngôn ngữ viết, từ ngữ được lựa chọn, thay thê' nên có điều kiện đạt được tính chính xác. Đồng thời, tùy thuộc vào phong cách ngôn ngữ của văn bản mà người viết sử dụng với tần số cao các từ ngữ phù hợp với từng phong cách. Nhìn chung, trong văn bản viết, người ta tránh dùng các từ ngữ mang tính khẩu ngữ, các từ ngữ địa phương, các tiếng lóng, tiếng tục,... về câu, trong ngôn ngữ viết thường có những câu dài, nhiều thành phần nhưng được tổ chức mạch lạc, chặt chẽ nhờ các quan hệ từ và sự sắp xếp các thành phần phù hợp.
Trong thực tiễn sử dụng ngôn ngữ, có hai trường hợp :
Ngôn ngữ nói được ghi lại bằng chữ viết trong văn bản.
Ví dụ : văn bản truyện có lời nói của các nhân vật, bài báo ghi lại cuộc phỏng vấn hoặc cuộc tọa đàm, bài ghi lại cuộc nói chuyện,... Trong trường hợp này, văn bản viết nhằm mục đích thể hiện ngôn ngữ nói trong những biểu hiện sinh động, cụ thể, và khai thác những ưu thê' của nó.
Ngôn ngữ viết trong văn bản được trình bày lại bằng lời nói miệng.
Ví dụ : thuyết trình trước hội nghị bằng một báo cáo đã viết sẵn, nói trước công chúng theo một văn bản,... Trong trường hợp này, lời nói tận dụng được những ưu thê' của ngôn ngữ viết (có sự suy ngẫm, lựa chọn, sắp xếp,...), •đồng thời vẫn có sự phôi hợp của các yếu tô' hỗ trợ trong ngôn ngữ nói (ngữ điệu, cử chỉ, nét mặt, điệu bộ,...).
Ngoài hai trường hợp trên, cần tránh sự lẫn l.ộn giữa ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói : tránh dùng những yếu tô' đặc thù của ngôn ngữ nói trong ngôn ngữ viết và ngược lại.
Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết có những đặc điểm riêng về hoàn cảnh sử dụng trong giao tiếp, về các phương tiện cơ bản và yếu tô' hỗ trợ, về từ ngữ và câu văn. Vì thể mỗi người cần nói và viết cho phù hợp với các đặc điểm đó.
THựC HÀNH - LUYỆN TẬP
Dòng nào dưới đây không diễn tả đúng đặc điểm của ngôn ngữ nói ?
Là ngôn ngữ âm thanh, là lời nói trong giao tiếp tự nhiên hàng ngày.
Đa dạng về ngữ điệu.
Có sự phối hợp giữa âm thanh, giọng điệu với các phương tiện bổ trợ như nét mặt, ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ,...
Có sự hỗ trợ của hệ thông dấu câu, của các kí hiệu văn tự, của các hình ảnh minh họa, các bảng biểu, sơ dồ,...
Phân tích những đặc điểm của ngôn ngữ viết thể hiện trong các đoạn trích sau :
Các tế bào của lá cây có chứa nhiều lục lạp. Trong các lục lạp này có chứa một chất gọi là diệp lục, tức là chất xanh của lá. Sở dĩ chất diệp lục có màu xanh lục vì nó hút các tia sáng có màu khác, nhất là màu đỏ và màu lam, nhưng không thu nhận màu xanh lục mà lại phản chiếu màu này và do đó mắt ta mới nhìn thấy màu xanh lục. Như vậy, lá cây có màu xanh là do chất diệp lục chứa trong thành phần tế bào.
Lúc đầu, hai chữ “thơ mới” dùng để gọi tên một thể thơ : thơ tự do. Khoảng sau năm 1930, một loạt thi sĩ trẻ xuất thân “Tây học” lên án “thơ củ” (chủ yếu là thơ Đường luật) là khuôn sáo, trói buộc. Họ đòi đổi mới thơ ca và đã sáng tác những bài thơ khá tự do, số chữ trong câu và số câu trong bài không có hạn định, gọi đó là “thơ mới”. Nhưng rồi “thơ mới” không còn chỉ để gọi thể thơ tự do mà chủ yếu dùng để gọi một phong trào thơ có tính chắt lãng mạn tiểu tư sản bột phát năm 1932 và kết thúc vào năm 1945, gắn liền với tên tuổi của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chê' Lan Viên, Nguyễn Bính,... Phong trào Thơ mới ra đời và phát triển mạnh mẽ rồi đi vào bể tắc trong vòng gần 15 năm.
Phân tích những đặc điểm của ngôn ngữ nói được ghi lại trong đoạn trích sau :
Bây giờ chị hàng bánh mới chịu buông cổ y, và reo lên :
Xem nào !
Một tay chị vẫn xoắn lấy áo y, một tay chị cúi xuống nhặt miếng bánh đầm đìa rãi rớt. Chị tách miêng bánh làm hai đưa cho những bà đứng đấy xem và phân bua :
Các ông các bà trông giùm tôi xem chị ấy ăn một tấm hay hai tấm, này ! Một tâm mà lại tách ra được thê này ! Tôi có mù đâu ? Mắt tôi vẫn phải trông đấy chứ !... Bán hàng mà không mắt năm, mắt mười thì mấy chố.c cởi váy mà bán đi ? Tôi biết chị ta chập hai tấm vào làm một, nhưng tôi cứ lờ đi, để rồi xem chị ta làm ăn thế nào. Ay thể mà chị ấy nhất định cãi là một tấm. Các ông các bà thử trông giúp tôi xem một tấm hay hai tấm mà nó lại như thế này ?
Bao nhiêu người xúm lại, đứng vây thành cái cũi. Chị hàng bánh biết y không còn chạy được, mới chịu buông áo y ra ; chị chỉ vào mặt y, the thé :
Cái mặt nhà chị ! Chị thử mở mắt ra trông xem một hay hai tấm, nào !
Cái mặt bủng beo của y xám như chàm. Nó không còn đỏ được, bởi y làm gì có máu. Cái miệng y há ra như chực nói, nhưng nói thế nào ? Chứng cớ trờ trờ ra đấy. Y cứng hàm. Những tiếng ắp úng trong cổ họng, một lúc lâu mới bật ra thành lời được :
Thỉ tôi giả..., tôi giả hai xu...
Nhưng y làm gì còn xu ! Y cúi mặt, nước mắt ra ròng ròng. Chị hàng bánh lộn tiết lèn. Chị xỉa tay vào tận mặt y :
■ Thôi ! Tôi cũng thí cho nhà chị. Tôi chỉ lu loa lên thế để cho cả chợ người ta biết ; rồi giờ người ta vạch vôi lấy mặt chị, để thấy cái mặt nhà chị đâu thì người ta kiềng nó ra.	(Nam Cao, Đòn chổng)