Soạn bài Nguyễn Du

  • Nguyễn Du trang 1
  • Nguyễn Du trang 2
  • Nguyễn Du trang 3
  • Nguyễn Du trang 4
  • Nguyễn Du trang 5
NGUYỄN DU
CUỘC ĐỜI
1. Nguyễn Du (1765 - 1820) tên chữ là Tô' Như, hiệu là Thanh Hiên. Tổ tiên Nguyễn Du vô'n từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội) sau di cư vào xã Nghi Xuân, huyện Tiên Điền (nay là làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh). Cha Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm (1708 - 1775) và mẹ là Trần Thị Tần (1740 - 1778), quê Bắc Ninh. Vợ Nguyễn Du là con gái Đoàn Nguyễn Thục, quê ở Quỳnh Côi, trâm Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Thái Bình). Nguyễn Du may mắn được tiếp nhận truyền thông ván hóa của nhiều vùng quê khác nhau. Đó là một tiền đề thuận lợi cho sự tổng hợp nghệ thuật của nhà đại thi hào dân tộc.
Thời thơ ấu và niên thiếu, Nguyễn Du sống tại Thăng Long trong một gia đình quý tộc phong kiến quyền quý. Thân phụ ông đã có lúc giữ chức Tể tướng trong triều đình Lê - Trịnh. Nhưng mới 10 tuổi đã mồ côi cha, nãm 13 tuổi, mồ côi mẹ, Nguyễn Du đến sông với người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản (1734 - 1786). Nguyễn Khản từng làm quan đêh chức Tham tụng, nổi tiếng phong lưu một thời, thân với chúa Trịnh Sâm và là người rất mê hát xướng. Trong thời gian này Nguyễn Du có nhiều điều kiện thuận lợi để dùi mài kinh sử, có dịp hiểu biết về cuộc sống phong lưu, xa hoa của giới quý tộc phong kiến, những điểm để lại dấu ấn trong sáng tác văn học của ông sau này. Sự xuất hiện khá đậm nét hình tượng những người ca nhi, kĩ nữ với tiếng đàn giọng hát và thân phận đau khổ của họ trong sáng tác của Nguyễn Du rất có thể là sự ám ảnh từ những gì ông đã chứng kiến trong gia đình người anh.
Năm 1783, 18 tuổi, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài) và được tập ấm nhận một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên.
Nhưng cuộc đời yên ả không kéo dài được bao lâu. Do nhiều biến cố lịch sử, từ năm 1789, Nguyễn Du đã rơi vào cuộc sông đầy khó khăn gian khổ hàng chục năm trước khi ra làm quan cho nhà Nguyễn. Những trải nghiệm trong môi trường quý tộc và cuộc sông phong trần đem lại cho Nguyễn Du một vốn sông thực tế phong phú, đã thôi thúc ông suy nghĩ nhiều về xã hội, về thân phận con người, tạo tiền đề quan trọng cho sự hình thành tài năng và bản lĩnh sáng tạo văn chương. Hơn 10 năm lăn lộn chật vật ở các vùng nông thôn khác nhau cũng là dịp Nguyễn Du học hỏi, nắm vững ngôn ngữ nghệ thuật dân gian. “Thôn ca sơ liọc tang ma ngữ" (Tiếng hát nơi thôn dã giúp ta biết ngôn ngữ trong nghề trồng dâu trồng gai). Đây là vốh hiểu biết rất cần thiết cho sự hình thành phong cách ngôn ngữ của các tác phẩm thơ Nôm, đặc biệt là Truyện Kiều.
- Sau 13 năm sông hết sức khó khăn chật vật ở các vùng thôn quê khác nhau, đến nãm 1802, Nguyễn Du đã ra làm quan cho nhà Nguyễn. Trên hoạn lộ, Nguyễn Du thăng tiến khá thuận lợi. Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện tại huyện Phù Dung (nay là Khoái Châu, Hưng Yên), sau đổi sang Tri phủ Thường Tín (nay thuộc Hà Nội). Từ năm 1805 đến năm 1809, ông được thăng chức Đông Các điện học sĩ. Năm 1809, được bổ làm Cai bạ dinh Quảng Bình. Năm 1813, ông được thăng cần Chánh điện học sĩ và giữ chức vụ chánh sứ đi Trung Quốc. Sang Trung Quốc, Nguyễn Du trực tiếp tiếp xúc với một nền văn hóa, một đất nước mà từ nhỏ ông đã quen thuộc qua nhiều sử sách và thơ văn. Chuyến đi sứ để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong thơ văn ông, đặc biệt góp phần nâng tầm khái quát của những tư tưởng về xã hội và thân phận con người trong sáng tác của ông. Năm 1820, Nguyễn Du lại được cử làm chánh sứ đi Trung Quốc nhưng lần này chưa kịp lên đường thì ông đã mất vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (18 - 9 - 1820).
Năm 1965, Hội đồng Hòa bình thế giới đã công nhận Nguyễn Du là danh nhân văn hóa thế giới và ra quyết định kỉ niệm trọng thể nhân dịp 200 năm năm sinh của ông.
154
Những yếu tố góp phần tạo nên thiên tài văn học Nguyễn Du
Nguyễn Du sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học.
Nguyễn Du sinh trưởng trong một thời đại có nhiều biến động dữ dội. Những thay đổi lớn lao của lịch sử đã tác động sâu sắc tới tình cảm và nhận thức của Nguyễn Du để ông hướng ngòi bút vào hiện thực.
Nguyễn Du là người có hiểu biết sâu rộng về văn hóa dân tộc và văn chương Trung Quô'c.
Sự từng trải trong cuộc đời đã tạo cho Nguyễn Du có một vốn sống phong phú và một trái tim giàu lòng yêu thương, thông cảm sâu sắc với những đau khổ của nhân dân.
Những yếu tô' trên đã góp phần tạo nên một Nguyễn Du - thiên tài vãn học của Việt Nam, được công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.
II. Sự NGHIỆP VĂN HỌC
Các sáng tác chính
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị lớn, cả chữ Hán lẫn chữ Nôm.
a. Về chữ Hán : Hiện nay giới nghiên cứu đã sưu tầm được 249 bài thơ chữ Hán do Nguyễn Du viết vào các thời kì khác nhau, gồm ba tập thơ : “Thanh Hiên thi tập”, “Nam trung tạp ngâm”, và “Bắc hành tạp lục”.
Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi ra làm quan cho nhà Nguyễn.
Nam trung tạp ngâm (Các bài thơ ngâm khi ở phương Nam) có 40 bài viết trong thời gian làm quan ở Huế và Quảng Bình, những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh, quê hương ông.
Bắc hành tạp lục (Ghi chép trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ sáng tác trong chuyên đi sang Trung Quốc.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện tư tưởng, tình cảm, nhân cách của ông.
Các bài thơ trong “Thanh Hiên thi tập” và “Nam trung tạp ngâm” tuy biểu hiện một tâm trạng buồn đau, day dứt nhưng đã cho thấy rõ khuynh hướng quan sát, suy ngẫm về cuộc đời, về xã hội của tác giả.
Trong “Bắc hành tạp lục”, những điểm đặc sắc của tư tưởng, tình cảm Nguyễn Du được thể hiện rõ ràng hơn. Thơ Nguyễn Du viết khi đi sứ Trung Quốc có ba nhóm đề tài đáng chú ý :
Đề tài vịnh sử : ca ngợi, đồng cảm với các nhân cách cao thượng và phê phán những nhân vật phản diện ;
Phê phán xã hội phong kiến chà đạp quyền sống con người ;
Cảm thông với những thân phận nhỏ bé dưới đáy xã hội, bị đọa đày hắt hủi.
Xét về đề tài và cảm hứng sáng tác, có nhiều điểm tương đồng giữa các bài
thơ chữ Hán trong “Bắc hành tạp lục” và “Truyện Kiều”.
b. Về chữ Nôm : có “Truyện Kiều” (Đoạn trường tân thanh'), “Vãn chiêu hồn” (Văn tế thập loại chúng sinh)...
“Truyện Kiều” là kiệt tác sô' một của Nguyễn Du. Tác phẩm có tên là “Đoạn trường tân thanh” (tiếng kêu mới đứt ruột), nhưng nhân dân ta quen gọi là “Truyện ăều”.
Gọi là “Truyện Kiều” bởi đây là câu chuyện về nàng Vương Thúy Kiều. Viết “Truyện Kiều”, Nguyễn Du có dựa vào cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Tuy nhiên, Nguyễn Du đã có nhiều sáng tạo, cụ thể là :
+ Sáng tạo về nội dung :
“Kim Vân Kiều truyện” chỉ là một câu chuyện tình ở Trung Quốc đời Minh. Nguyễn Du đã biến thành một khúc ca đau lòng thương người bạc mệnh, nói lên “những điều trông thấy” trong giai đoạn lịch sử đầy biến động của Việt Nam cuối Lê đầu Nguyễn.
+ Sáng tạo về nghệ thuật :
Nguyễn Du đã lược bỏ các chi tiết về mưu mẹo và một số chi tiết khác của các nhân vật trong “Kim Vân Kiều truyện”, sáng tạo thêm một số chi tiết mới để tô đậm câu chuyện về tình người ; biến các sự kiện chính của tác phẩm thành đô'i tượng để bộc lộ cảm xúc, tình cảm của nhân vật và người kể ; chuyển trọng tâm của truyện từ sự kiện sang nội tâm của nhân vật chính. Ngòi bút tả cảnh, tả tình, tả người rất điêu luyện của Nguyễn Du đã làm cho các nhân vật sông hơn, sâu sắc hơn.
Về thể loại : “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân là tiểu thuyết chương hồi gồm 20 hồi, bằng văn xuôi. “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là truyện Nôm gồm 3254 câu lục bát, mang tính chất tiểu thuyết bằng thơ.
‘Văn chiêu hồn” nguyên tên là “Văn tế thập loại chúng sinh” (Văn tế mười loại chúng sinh) viết bằng thể thơ song thất lục bát. Bài văn tế thể hiện một phương diện quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo trong sáng tác của Nguyễn Du. Theo quan niệm xưa, hồn của người chết bất hạnh cần được siêu sinh tịnh độ. Nguyễn Du viết bài thơ chiêu hồn cho nhiều hạng người khác nhau, kể cả những người thuộc tầng lớp phong kiến quý tộc. Song tấm lòng nhân ái của nhà thơ vẫn hướng về những thân phận nhỏ bé, dưới đáy xã hội như các em nhỏ, các kĩ nữ, những anh học trò nghèo. Do giá trị nhân đạo sâu sắc mà “Văn chiêu hồn” đã được phổ biến rộng rãi, kể cả trong phạm vi nhà chùa.
Một vài đặc điểm về nội dung và nghệ thuật a. Đặc điểm nội dung
Nếu so với nhiều nhà thơ xưa. làm thơ để nói chí (hướng về lí tưởng người quân tử, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ) thì nét nổi bật xét về nội dung của sáng tác Nguyễn Du là sự đề cao cảm xúc, tức đề cao tỉnh. Chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong thơ chữ Hán, Truyện Kiều, Văn chiêu hồn là tình cảm chân thành, là sự cảm thông sâu sắc của tác giả đành cho cuộc sông và con người, đặc biệt là dành cho những con người nhỏ bé, bất hạnh, dành cho người phụ nữ. Người ăn mày, người mù hát rong, những ca nhi, kĩ nữ,... vốn bị xã hội cũ coi rẻ được nhà thơ nói đến bằng một tấm lòng trân trọng, thương yêu. Những triết lí của ông về cuộc đời, về thân phận con người thường mang tính khái quát cao và thâm đẫm cảm xúc. Nhà thơ triết lí với nỗi đau về thân phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ “Đau đớn thay phận đàn bà - Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” (.Truyện Kiều), “Đau đớn thay phận đàn bà - Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu” (Vãn cliiêu hồn), ông khái quát bản chất của xã hội phong kiến, bộc lộ sự phẫn nộ đốì với những kẻ đã hãm hại Khuất Nguyên “Hậu thế nhân nhân giai Thượng Quan - Địa địa xứ xứ giai Mịch La). Ý nghĩa xã hội sâu sắc của thơ ca Nguyễn Du gắn chặt với tình đời, tình người bao la của nhà thơ. Đặc biệt lưu ý đến cái nhìn nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du vì ông là người đầu tiên trong văn học trung đại đã nêu lên một cách tập trung vấn đề về thân phận của những người phụ nữ có sắc đẹp và tài năng văn chương nghệ thuật (thơ, nhạc,...). Ông đã đề cập đến một vấn đề rất mới, nhưng cũng rất quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học : xã hội cần phải trân trọng những giá trị tinh thần như nghệ thuật, thi ca, do đó cần phải trân trọng chủ nhân sáng tạo ra những giá trị tinh thần đó.
b. Đặc điểm nghệ thuật
Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác. ông nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc, làm thơ theo thể ngủ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật và ca, hành (nhạc phủ),... Thơ chữ Hán của ông ở thể thơ nào cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt phải nói đến tài năng nghệ thuật của nhà thơ trong bộ phận thơ Nôm. Nguyễn Du nắm vững và góp phần trau dồi ngôn ngữ văn học dân tộc, với tài năng cá nhân đã làm giàu cho tiếng Việt qua việc Việt hóa nhiều yếu tố ngôn ngữ ngoại nhập. Thể thơ lục bát đến Truyện Kiều của ông đã chứng tỏ khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn của thể loại truyện thơ.
Ghi nhớ: Nguyễn Du là nhà thơ nhân đạo tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX. Ổng có đóng góp to lớn đối với văn học dân tộc về nhiều phương diện nội dung và nghệ thuật, xứng đáng dược gọi là thiên tài văn học.