Soạn bài Tấm Cám (Truyện cổ tích)

  • Tấm Cám (Truyện cổ tích) trang 1
  • Tấm Cám (Truyện cổ tích) trang 2
  • Tấm Cám (Truyện cổ tích) trang 3
  • Tấm Cám (Truyện cổ tích) trang 4
  • Tấm Cám (Truyện cổ tích) trang 5
  • Tấm Cám (Truyện cổ tích) trang 6
  • Tấm Cám (Truyện cổ tích) trang 7
TRUYỆN cổ TÍCH
TẤM CÁM
A. KIẾN THỨC cơ BẢN
Giới thiệu
Khái niệm về truyện cổ tích
Truyện cổ tích là những câu chuyện hư cấu (có tính chất thần kì hoặc phù hợp với thực tế) kể vầ số phận con người trong xã hội đã và đang phân hoá thành đẳng cấp.
Phân loại
Truyện cổ tích được chia thành ba loại :
Truyện cổ tích về loài vật ;
Truyện cổ tích sinh hoạt ;
Truyện cổ tích thần kì. Đây là loại truyện có nội dung phong phú và chiếm sô' lượng nhiều nhất.
Truyện cổ tích thần kì
Đặc trưng cơ bản :
+ Sự tham gia của cắc yếu tô' thần kì khá phổ biến (tiên, bụt, sự biến hoá thần kì, những vật có phép màu...).
+ Kết cấu truyện tương đôi thông nhất. Dạng kết cấu phổ biến là nhân vật chính trải qua những cuộc phiêu lưu hoặc hoạn nạn, thử thách, cuối cùng đạt được ý nguyện của mình (trở thành vua, hoàng hậu hoặc người giàu có, hạnh phúc...).
Nội dung :
+ Phản ánh những mâu thuẫn trong gia đình (giữa anh chị với em ; giữa dì ghẻ, bô' dượng với người con riêng của chồng hay vợ).
+ Phản ánh những mâu thuẫn xã hội (người ở với chủ nhà, người làm thuê với chủ đất, người dân với vua quan,...).
Mâu thuẫn gia đình và xã hội thường được thể hiện dưới dạng khái quát : đấu tranh giữa cái tô't và cái xấu, giữa cái thiện và cái ác.
Giá trị tư tưởng :
+ Nêu những tấm gương đạo đức nhằm giáo dục con người, đặc biệt là trẻ em. Nhân dân đề cao cái thiện. Dùng thiện để thắng ác là cách giải quyết mâu thuẫn gia đình và mâu thuẫn xã hội trong truyện cổ tích thần kì.
+ Thể hiện những ước mơ cháy bỏng của nhân dân lao động về hạnh phúc gia đình, về lẽ công bằng trong xã hội, về phẩm chất và năng lực tuyệt vời của con người. Truyện cổ tích thần kì tràn đầy tinh thần lạc quan, “chiếu rọi ánh sáng vào một thê' giới khác” đô'i lập với những gì đen tối, khổ đau, tạo cho con người một sức mạnh tinh thần, ham sông, ham tranh đấu.
Truyện Tấm Cám
Truyện thuộc loại truyện cổ tích thần kì. Kiểu truyện Tấm Cám phổ biến ở nhiều dân tộc khác nhau trên thê' giới.
Đọc - hiểu văn bản
Mâu thuẫn của truyện được xây dựng từ thấp đến cao dẫn đến xung đột giữa Tấm và mẹ con Cám :
Chiếc yếm đỏ
Con bông
Thử giày
Cái chết của Tấm
Chim vàng anh
Cây xoan đào
Chiếc khung cửi.
Hai xu hướng phát triển của hai tuyến nhân vật :
Sự tàn nhẫn, độc ác của mẹ con dì ghẻ ngày càng tăng với động cơ muốn chiếm đoạt tất cả những gì thuộc về Tấm, muôn tiêu diệt Tấm đến cùng.
Từ sự bị động và yếu đuối, Tấm đã có những phản ứng mạnh mẽ, quyết liệt.
Bản chất của mâu thuẫn và xung đột trong truyện :
Đây là mâu thuẫn trong gia đình : mâu thuẫn dì ghẻ - con chồng.
Tuy nhiên, mâu thuẫn này đã mang ý nghĩa khái quát chung của truyện cổ tích : mâu thuẫn giữa thiện và ác - mâu thuẫn mang tính xã hội.
Truyện Tẩm Cám thể hiện được khá đầy đủ những đặc trưng của cổ tích thần kì. Yếu tô' thần kì trong truyện khá phố’ biến :
Nhân vật thần kì (Bụt)
Vật thần kì (xương cá bông)
Bản thân nhân vật chính cũng có sự biến hoá thần kì.
Tổng kết
Sự biến hóa của Tấm đã thể hiện được sức sống, sức trỗi dậy mãnh liệt của con người trước sự vùi dập cửa kẻ ác. Đây là sức mạnh của thiện thắng ác. Mâu thuẫn và xung đột trong truyện phản ánh mâu thuẫn và xung đột trong gia đình phụ quyền thời cổ.
Đặc sắc nghệ thuật của truyện thể hiện ờ sự chuyển biến của hình tượng nhân vật Tấm : từ yếu đuối, thụ động đến kiên quyết đấu tranh giành lại sự sống và hạnh phúc cho mình.
B. ĐỀ VÃN LUYỆN TẬP
Đề : Sách giáo khoa Ngữ văn 10 (thí điểm), tập 1 nhận định về truyện cổ tích “Tấm Cám” : “Đặc sắc nghệ thuật của truyện là khắc họa được hình tượng Tấm có sự phát triển về tính cách (từ yếu đuôi, thụ động đến kiên quyết đấu tranh giành lại cuộc sổng và hạnh phúc)”.
Anh/chị hiểu như thế nào về nhận định trên ? Phân tích tác phẩm để làm rõ. DÀN Ý
Mở bài
Giới thiệu Tấm Cám - truyện cổ tích thần kì tiêu biểu của dân tộc.
Luận đề : hình tượng Tấm có sự phát triển về tính cách.
Thân bài
Tổng :
Nguồn gốc của truyện gắn với thời kì xã hội đã nảy sinh những xung đột mâu thuẫn. Vai trò của yếu tô' thần kì góp phần phản ánh ước mơ công bằng của nhân dân.
Triết lí nhân sinh từ câu chuyện toát lên từ hình tượng trung tâm : cô Tấm xinh đẹp, thảo hiền trong cuộc đấu tranh chống lại cái ác, giành lại hạnh phúc.
Phân :
Tính cách Tấm khi ở với mẹ con Cám :
Hiền lành.
Nhẫn nhục đáng thương.
Khi gặp hoạn nạn chỉ biết tủi thân ôm mặt khóc. Chỉ có Bụt an ủi giúp đỡ Tấm.
Tấm thành hoàng hậu và âm mưu của mẹ con Cám :
Tấm thành hoàng hậu do bản chất tô't đẹp của nàng.
Sự ganh ghét đố kị đã trở thành tội ác ghê tỡm của mẹ con Cám. Sự ngây thơ, lòng hiếu thảo của Tấm đã phải trả giá bằng cái chết. Nàng trở thành nạn nhân của một âm mưu thấp hèn.
Mỗi lần bị hại, Tấm càng trở nên mạnh mẽ hơn. Sự hoá thân thần kì của nhân vật là tình cảm của dân gian bênh vực và bảo vệ cho vẻ đẹp không bị hủy diệt. Nàng chủ động bảo vệ hạnh phúc của mình.
Sự trở về của Tấm :
Lần hoá thân cuối cùng của Tấm vào quả thị thể hiện được bản tính của người con gái thơm thảo. Tấm sông cùng bà lão nghèo, được gần gũi chia sẻ với nhân đần.
Miếng trầu là hình ảnh sông động về người con gái thảo hiền nết na, cũng là dấu hiệu để vua nhận ra nàng, đón nàng về cung.
Sự trừng phạt là tất yếu với mẹ con Cám để diệt trừ tận gốc cái ác, bộc lộ rõ ràng thái độ của dân gian. Bọn chúng phải trả giá tương xứng với tội ác chúng đã gây ra cho Tấm.
Hợp :
Sự phát triển tính cách của Tấm thể hiện triết lí dân gian sâu sắc về con người. Quan niệm “ở hiền gặp lành” không phải thụ động chờ hưởng phúc mà phải đấu tranh để đạt tới.
Vẻ đẹp của nhân vật thêm phần hấp dẫn nhờ yếu tô' thần kì, đồng thời khẳng định tinh thần không chịu khuất phục trước cái xấu, cái ác.
Kết bài : Cảm nhận của bản thân về vẻ đẹp hình tượng Tấm.
BÀI VIẾT GỢI ý
“Trên quê hương ta biết bao nhiêu cô Tấm xinh đẹp đảm đang...”. Vâng, cô Tấm từ trong quả thị từ xa xưa đến nay luôn gần gũi thân thuộc với mỗi tâm hồn Việt Nam. Tấm Cám gắn với lời kể của mẹ, lời hát của bà “Bông bông, bang bang...” đưa ta vào không gian huyền ảo của câu chuyện cổ tích thần kì thấm đượm cảm hứng nhân văn này.
Tấm Cám đánh dấu sự rạn nứt trong các mối quan hệ xã hội, khi bắt đầu nảy sinh những xung đột mang mầm mống của cuộc đấu tranh giai cấp. Bởi thế câu chuyện chính là sự phản chiếu tâm hồn của những người bị áp bức mong muốn có một cuộc sống công bằng và tốt đẹp hơn. Sách giáo khoa Ngữ văn 10 (thí điểm), tập 1 nhận định về truyện cổ tích “Tấm Cám” : “Đặc sắc nghệ thuật của truyện là khắc họa được hình tượng Tấm có sự phát triển về tính cách (từ yếu đuối, thụ động đến kiên quyết đấu tranh giành lại cuộc sống và hạnh phúc)”. Triết lí dân gian thể hiện sinh động trong nội dung cuộc đấu tranh với mức độ ngày càng quyết liệt căng thẳng giữa cô Tẩm hiền dịu với mẹ con mụ dì ghẻ độc ác. Triết lí ấy hàm chứa ước mơ của người bình dân : “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ”.
Bắt đầu cho những xung đột của tác phẩm là mối quan hệ dì ghẻ - con chồng, sự phân biệt đốì xử giữa những đứa con không cùng chung dòng máu. Sự bất công thể hiện không chỉ ở những gì mà mụ dì ghẻ đô'i xử với Tấm kiểu “con yêu - con ghét”, mà mầm mông ấy đã nảy nở sang người em khác mẹ với cô : Cám được nuông chiều bởi sự thiên vị đã tất yếu bộc lộ sự ích kỉ, tranh giành phần hơn, xem việc Tấm bị thiệt thòi như một tất yếu. Mầm ác cứ lớn dần từ việc Cám lừa Tấm tranh giỏ cá để được chiếc yếm đỏ ban đầu cho đến việc hai mẹ con đì ghẻ dồn mọi việc nặng nhọc sang cho Tấm, hành hạ cô chăn trâu cắt cỏ đồng xa để bọn chúng ở nhà thực hiện những mưu mô đen tối. Điều đáng nói là trong mối quan hệ này, hầu như Tấm chưa hề có phản ứng gì mà chỉ biết bưng mặt khóc.
Bởi thế, dân gian đã sáng tạo ra hình tượng ông Bụt giúp Tâm giành lại những quyền lợi đáng ra cô phải được hưởng. Yếu tô' ngẫu nhiên về con cá bông còn sót lại trong giỏ cho đến khi bông thành người bạn thân thiết của Tấm, cô gái mồ côi cô đơn, đã chuyển sang ý nghĩa triết lí. Người hiền lành như Tấm phải được hưởng sự công bằng, đó là lẽ trời. Thế nhưng, mầm thiện luôn bị chèn ép bởi cội rễ cái ác cứ lớn dần. Mẹ con dì ghẻ đã tước đoạt luôn niềm vui của cô bé khi dùng mẹo lừa Tấm đi xa để bắt bông ăn thịt. Từ xung đột này, câu chuyện đã mang ý nghĩa một xung đột chiều sâu : sự an phận đồng nghĩa với việc để cho cái ác tiếp tục hoành hành. Một lần nữa Bụt xuất hiện để an ủi Tấm, con gà cũng giúp cô tìm xương cá bông...
Câu chuyện phát triển theo hướng xung đột càng trở nên gay gắt : hai mẹ con Cám hưởng thụ niềm vui hội hè còn Tấm phải âm thầm tủi hổ gạt qua khát khao được đi chơi để hoàn thành công việc mà dì ghẻ bày ra hành hạ cô. Lúc này bên cạnh Tấm có sự xuất hiện của đàn chim sẻ trợ giúp. Xương cá bống bây giờ biến thành quần áo đẹp giúp cô đi xem hội. Có thể nói chính nhân dân đã tạo ra các yếu tô' thần kì để bênh vực cho những quyền lợi chính đáng cho cô gái đảm đang, Tấm xứng đáng được hưởng sự công bằng.
Những tưởng cuộc đời Tấm sẽ sang trang sau khi thử vừa chiêc hài đánh rơi, được đón về cung vua, giông như cô bé Lọ Lem được hưởng hạnh phúc cùng hoàng tử trong câu chuyện cổ nước ngoài. Thế nhưng truyện Tấm Cám đã chuyển sang một loạt những xung đột mới gay gắt hơn. Sự đố kị, lòng ích kỉ đã khiến cho hai mẹ con Cám không buông tha Tấm. Chúng không chấp nhận hạnh phúc đến dễ dàng với cô gái xinh đẹp dịu hiền. Tội ác của mẹ con Cám phát triển ở mức độ tinh vi hơn, bắt đầu từ một thủ đoạn lừa đảo đánh đúng lòng hiếu thảo của Tấm. Tấm chết vì chính sự ngây thơ không mảy may đề phòng dã tâm của mẹ con Cám. Nhưng cũng bắt đầu từ thời điểm này, hàng loạt quá trình hoá thân thần kì của Tấm đã thể hiện một nhận thức mới, gắn với triết lí của nhân dân về cuộc đấu tranh chông lại cái ác. Có lẽ việc tạo ra những hình tượng bất tử là một truyền thống độc đáo của truyện cổ tích thần kì Việt Nam, khẳng định sức sống mạnh mẽ và ý chí tranh đấu của người bình dân vượt lên các thế lực bạo tàn.
Mạch truyện gắn với các tình tiết hoá thân kì ảo của nhân vật. Mặc dù Cám được vào cung vua, thế nhưng Tấm mới là người giành trọn được tình yêu thương của ông vua trẻ. Nàng lần lượt biến thành chim vàng anh, cây xoan đào quấn quýt bên chồng. Chim vàng anh là biểu tượng của một tình yêu khắng khít, cây xoan đào là biểu tượng dịu dàng của người vợ chỉ mong muôn được chăm sóc chồng. Tính chất xung đột càng lúc càng gay gắt hơn khi lần lượt Cám giết chim vàng anh, chặt cây xoan đào, phá tan mong muốn sum vầy hạnh phúc của Tấm. Bởi thế, nỗi đau đớn vì hạnh phúc bị cướp đi đã biến thành tiếng rít căm hờn của Tấm - khung cửi : “Cót ca cót két. Lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra !”. Không còn là một cô Tấm tủi thân tủi phận ngày nào nữa, nàng đã bắt đầu cho cuộc đấu tranh giành lại hạnh phúc của mình. Cuộc chiến chốn hoàng cung lại tiếp diễn với phần thắng tạm nghiêng về Cám, khi khung cửi bị đốt thành tro và tro bị vứt trả về với đất bụi dân dã. Thế nhưng điều kì diệu về sức sống mãnh liệt của Tấm bây giờ mới thật sự bắt đầu.
Tấm được trở về sông với bà lão hàng nước nghèo khổ nhân hậu, trong hình hài quả thị thơm thảo như tấm lòng của cô. Để rồi từ trong quả thị, cô bước ra trong hình hài đẹp đẽ nhất, với tất cả vẻ dịu dàng đảm đang, quán xuyến tảo tần : dọn dẹp nhà cửa, cơm lành canh ngọt. Tấm hiện thân cho vẻ đẹp đặc trưng của người phụ nữ Việt Nam, rất bình dị và trong sáng, vẻ đẹp ấy tất yếu chỉ xuất hiện trong cuộc sông dân dã, gắn bó những tâm hồn thuần hậu chất phác trong dáng vẻ quê mùa, trong những công việc thổi cơm, rót nước, gói bánh, têm trầu, vẻ đẹp ấy thấm đượm tinh thần nhân văn của người lao động.
Miếng trầu têm cánh phượng là dấu ấn gặp gỡ giữa Tấm với vua - người chồng chung thủy không nguôi nhớ về cô gái thảo hiền nết na xinh đẹp. Lẽ công bằng được lập lại, lần này không do bàn tay của Bụt giúp, mà chính từ phẩm chất của Tấm, từ sự sông bất tử của cái thiện vượt lên mọi mưu mô độc ác. Vua không phải đại diện của thế lực thông trị mà chỉ là hiện thân của một lẽ công bằng. Cung vua và cuộc sông dân dã ấy không quá cách xa như những câu chuyện cổ tích về sau.
Không dùng lại như kết thúc của sách giáo khoa, lời kể dân gian còn tiếp diễn với việc Cám bị trừng phạt vì chính những tham vọng của mình, mụ dì ghẻ cũng phải đền tội vì chính tội ác mụ gây ra cho người con chồng. Có lẽ đó là một kết thúc hợp lí vì cái ác không thể tồn tại để gây hoạ tiếp tục cho những người lương thiện... Đó cũng là thái độ của nhân dân kiên quyết diệt trừ cái ác, đứng về cái thiện, thể hiện khát khao cháy bỏng về lẽ công bằng ở đời. Đó cũng là công lí và đạo lí dân gian, làm nên vẻ đẹp trọn vẹn của câu chuyện cổ tích thần kì Tấm Cám.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
Truyện cổ tích là những truyện kể về những câu chuyện tưởng tượng chung quanh số phận và cuộc đời một số kiểu nhân vật nhất định : kiểu nhân vật bất hạnh và kiểu nhân vật kì tài ; kiểu nhân vật trí xảo và kiểu nhân vật khờ khạo ; kiểu nhân vật đức hạnh và kiểu nhân vật xấu xa ; kiểu nhân vật là loài vật.
Đặc điểm nổi bật nhất của kiểu truyện cổ tích là tính chất tưởng tượng của câu chuyện kể. Đó là những câu chuyện hư cấu, bịa đặt, không có thực, không thể xảy ra trong thực tế ! Nhưng đây là tưởng tượng của cổ tích chứ không phải của thơ ca, vì vậy cái không có thực của cổ tích thường mang tính chất hoang đường, và tưởng tượng ở đây là để tạo nên tính chất kì lạ, khác thường của câu chuyện kể. Điều này đã làm nên “thế giới cổ tích” với chất thơ bay bổng, với sức cuốn hút kì diệu của nó - không chỉ với trẻ thơ mà cả với người lớn. Một cô Tâm từ trong quả thị bước ra sau bao nhiêu lần biến hóa, một cô út “phiêu lưu” trong bụng cá và trên hoang đảo, một câu thần chú của Bụt tạo thành cây tre trăm đốt, một con chim phượng hoàng ăn khế trả vàng, một tiếng đàn Thạch Sanh lui binh mười tám nước..., “thế giới cổ tích” ấy đẹp và hấp dẫn biết bao, đem lại cho con người sự thích thú, niềm tin và ước mơ. Trẻ em cảm thấy được đến với một thế giới khác cuộc đời hàng ngày, ở đó các em thường bị gò bó theo ý người lớn, “một thế giới trong đó trẻ em vận động, chông chọi, đem cái thiện chí của mình ra đối kháng với cái ác” (V. Xu-khôm-lin-xơ-ki) ; còn với người lớn thì thế giới cổ tích là một thế giới khác hẳn “cuộc đời hàng ngày tẻ nhạt, khô cằn, đầy tiếng thở than của những kẻ tham lam khôn cùng và ghen ghét đến thành bản năng...” (M. Go-rơ-ki), một thế giới trong đó “sự giản dị đẹp đẽ, sự dốt nát kì diệu của người thời cổ... được bảo quản tươi nguyên như hoa với cả hương thơm” (A. Phơ-răng-xơ).
Truyện cổ tích đã nảy sinh từ trong xã hội nguyên thuỷ nhưng nó phát triển chủ yếu trong xã hội có giai cấp, nên chủ đề chủ yếu của nó là chủ đề xã hội và loại xung đột xã hội có thể xem là đề tài đặc trưng của thể loại truyện cổ tích so với thần thoại và sử thi cổ đại. Vì vậy, tuy là những câu chuyện hoang đường không có thực nhưng cổ tích đã đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa vừa rộng lớn vừa sâu xa về nhân sinh và xã hội.'Thêm một lí do nữa để con người ngày nay yêu thích thể loại văn học dân gian này, bởi vì “trong mỗi truyện cổ tích đều có những yếu tô' của thực tế” (V.I. Lê-nin).
Cũng giông như cổ tích thế giới, cổ tích Việt Nạm có kiểu truyện, kiểu nhân vật và môtíp nghệ thuật.
Tập hợp những truyện có cùng , chủ đề và cốt truyện tương tự như nhau, được gọi là kiểu truyện. Thí dụ kiểu truyện Tấm Cám ở Việt Nam gồm có các truyện Tấm Cám của người Việt, truyện Tua Gia - Tua Nhi của người Tày, truyện Y ưởi - Ý Noọng của người Thái, truyện Cliiếc giày vàng của người Chăm... ; kiểu truyện người lấy vật ở Việt Nam gồm có các truyện Sọ Dừa, truyện Lấy vợ Cóc, truyện Lấy chồng Dê... của người Việt, truyện Chàng Bâu của người Mường, truyện Ech lấy con vua của người Mèo... ; kiểu truyện Thạch Sanh (tức kiểu truyện dũng sĩ diệt đại bàng cứu người đẹp)...
Trong truyện cổ tích thần kì có kiểu nhân vật bất hạnh (người em út, người mồ côi, người con riêng, người xấu xí, người đi ở,...) và kiểu nhân vật kị tài (người có sức khoẻ phi thường, người có tài nghệ kì lạ,...) ; trong truyện cổ tích sinh hoạt có kiểu nhân vật trí xảo (như Em bé thông minh} và kiểu nhân vật khờ khạo (như các chú Ngốc). Nhân vật trong truyện cổ tích chưa được cá thể hóa, càng chưa được tâm lí hóa, tính cách của nó chỉ được bộc lộ qua hành động như Đỗ Bình Trị đã nhận xét : “Nhân vật trong truyện cổ tích là hành động của nó”. Vì vậy, cái nét riêng của nhân vật cổ tích là. ở các kiểu dạng hành động, chẳng hạn như “làm theo vợ dặn một cách máy móc” của nhân vật khờ khạo - nó chưa phải là cái nét riêng của “con người này” như Hê-ghen nói về nhân vật điển hình trong văn học cổ điển và hiện đại sau này.
Cuối cùng là các môtíp nghệ thuật. Truyện cổ tích thường sử dụng một số yếu tố cố định để kết dệt thành câu chuyện kể. Đó là những chi tiết nghệ thuật có mặt trong nhiều truyện cổ tích của nhiều dân tộc. Những chi tiết này đến địa phương, dân tộc nào cũng đều được địa phương hóa, dân tộc hóa theo một xu hướng tự nhiên. Truyện cổ tích một số dân tộc ở châu Âu có môtíp “cái bàn thần” có thể hóa phép thành những bữa ăn sang trọng thì ở truyện cổ tích một số dân tộc dùng mâm ăn cơm cũng có môtíp “cái mâm thần” tương tự. Môtíp “rơi giày và ướm giày” trong kiểu truyện Tấm Cám rất phổ biến, nhưng ở Việt Nam là đôi hài còn ở Pháp là đôi giày da sóc. Và ngay cả môtíp “nồi cơm ăn hết lại đầy” đều có ở truyện Thạch Sanh của người Khơme và người Việt. Những môtíp đó là “những phần tử đơn vị vừa mang tính đặc trưng vừa mang tính bền vững của truyện kể dân gian” (Nguyễn Tấn Đắc). Nó mang tính phôn-cơ-lo đậm đặc và góp phần quan trọng để tạo nên cái sắc thái dân gian của truyện.	Nguyễn Xuân Lạc