Soạn bài Đọc Tiểu thanh kí (Độc Tiểu Thanh kí)

  • Đọc Tiểu thanh kí (Độc Tiểu Thanh kí) trang 1
  • Đọc Tiểu thanh kí (Độc Tiểu Thanh kí) trang 2
  • Đọc Tiểu thanh kí (Độc Tiểu Thanh kí) trang 3
  • Đọc Tiểu thanh kí (Độc Tiểu Thanh kí) trang 4
  • Đọc Tiểu thanh kí (Độc Tiểu Thanh kí) trang 5
  • Đọc Tiểu thanh kí (Độc Tiểu Thanh kí) trang 6
  • Đọc Tiểu thanh kí (Độc Tiểu Thanh kí) trang 7
  • Đọc Tiểu thanh kí (Độc Tiểu Thanh kí) trang 8
ĐỌC “TIỂU THANH KÍ”
Nguyễn Du
(Độc “Tiểu Tlianh kí”)
A. KIẾN THỨC Cơ BẢN
Giới thiệu
“Đọc Tiểu Thanh kí” (Độc “Tiểu Thanh kí”) là một bài thơ chữ Hán nằm trong “Thanh Hiên thi tập” của Nguyễn Du.
Cũng như Truyện Kiều, thơ chữ Hán của Nguyễn Du chứa chan tình yêu thương đối với con người, và cũng là nơi Nguyễn Du gửi gắm tâm sự riêng của mình.
Đọc “Tiểu Thanh kí” là bài thơ viết về một nhân vật có thực trong lịch sử Trung Quốc và cũng nằm trong mạch cảm hứng chung của Nguyễn Du về những phụ nữ tài sắc mà bất hạnh. Nguyễn Du đặc biệt chú ý đến những nhân vật nữ “hồng nhan bạc mệnh” có thân phận thấp trong xã hội như Đạm Tiên, Thuý Kiều, Tiểu Thanh.
Đọc - hiểu văn bản
Đây cũng là bài thơ mà Nguyễn Du gửi gắm tâm sự của mình. Nhà thơ nhìn thấy số phận bản thân có chỗ tương đồng với số phận những phụ nữ tài sắc. Do đó, ông khóc Tiểu Thanh cũng là cách thương cảm cho chính số phận của những nhà nho như mình. Không riêng ở Nguyễn Du, nhân vật phụ nữ tài sắc (kĩ nữ, ả đào) và bất hạnh không chỉ là đối tượng cảm thông mà còn là đối tượng để các nhà thơ thế kỉ XVIII - XIX gửi gắm nỗi niềm tâm sự của riêng mình.
Nàng Tiểu Thanh có một sô' nét giông như ả đào ở nước ta thời trước : có sắc đẹp, làm thơ hay, tinh thông âm nhạc nghệ thuật, làm lẽ rất trẻ (16 tuổi đã đi làm vợ lẽ). Người đẹp, có tài âm nhạc, văn chương nghệ thuật mà bất hạnh là loại nhân vật được Nguyễn Du quan tâm.
Câu thơ “Cổ kim hận sự thiên nan vấn” (Những mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được) :
Mốì hận “cổ kim" là mô'i hận của người xưa và người nay. Người xưa có thể là Tiểu Thanh và những người như nàng. Người nay có thể bao gồm những phụ nữ “hồng nhan bạc mệnh” cùng thời Nguyễn Du và chính thế hệ những nhà thơ tài năng như Nguyễn Du, những người đã gặp nhiều điều không may trong cuộc đời. Nguyễn Du cho rằng trời đã bất công với những con người tài sắc nên viết “Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi" (trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng có ý tương tự : “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen"). Nhà thơ coi mình là người cùng hội cùng thuyền với nàng Tiểu Thanh nên viết tiếp câu sau đó : “Phong vận kì oan ngã tự cứ’ (Ta tự thấy là người cùng hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã). Câu thơ này giúp ta suy đoán nội dung hai chữ “cổ kim" như trên. Lời oán trách trời thể hiện nỗi đau khổ và bất bình của thế hệ nhà thơ ý thức về sự chà đạp lên giá trị của nghệ thuật và văn chương trong xã hội phong kiến. Đó cũng là tâm sự của Nguyễn Du.
Giá trị nhân đạo của bài thơ là ở chỗ : Nguyễn Du không chỉ thông cảm với một trường hợp cụ thể là nàng Tiểu Thanh. Xã hội phong kiến theo Nho giáo xưa có cái nhìn kì thị đôi với những phụ nữ có sắc đẹp, tuyên truyền trọng đức hơn trọng sắc. Đặc biệt, những người phụ nữ giỏi về văn học nghệ thuật như các ả đào, các kĩ nữ bị xem là “xướng ca vô loài”. Bày tỏ sự đồng cảm và thông cảm với họ là một dấu hiệu tiến bộ trong tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du. Ồng đã vượt qua cái nhìn kì thị của tư tưởng Nho giáo để đến với những thân phận đáng thương đó.
Ghi nhớ: Bài thơ Đọc “Tiểu Thanh kí” viết về số phận hất hạnh của người phụ nữ có tài văn chương trong xã hội phong kiến đồng thời cũng nói lên một phương diện quan trọng trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du.
B. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề 1 : Có ý kiến cho rằng : “Bài thơ “Đọc Tiểu Thanh kí” thể hiện cảm xúc và suy tư của Nguyễn Du về số phận của những người tài sắc trong xã hội phong kiến”. Hãy phân tích bài thơ “Đọc Tiểu Thanh kí” để làm sáng tỏ nhận định trên.
BÀI VIẾT GỢI ý
Thương xót cho sô' phận bất hạnh của những người tài sắc là một cảm hứng lớn trong sáng tác Nguyễn Du. Mộng Liên Đường chủ nhân có viết : “Thúy Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Như tử làm truyện Thúy Kiều, việc tuy khác nhau mà lòng thì là một, người đời sau thương người đời nay, người đời nay thương người đời xưa, hai chữ tài tình thật là một cái thông lụy của bọn tài tử khắp trong gầm trời và suốt cả xưa nay vậy”.
Bài thơ “Đọc Tiểu Thanh kí” thể hiện cảm xúc và suy tư của Nguyễn Du về số phận của những người tài sắc trong xã hội phong kiến .
Tiểu Thanh là vợ thiếp của một người ở Hổ Lâm, nhà ở Quảng Lăng, Giang Tô, cùng họ với chồng, nên chỉ gọi là Tiểu Thanh. Thuở bé thông tuệ khác thường. Năm mười tuổi, gặp một ni sư dạy cho Tâm kinh, chỉ qua một hai lượt là đã thuộc lòng, đọc lại không sai một chữ. Ni sư bảo : Cô này thông tuệ sớm, phúc bạc, nếu không cho vào chùa làm đệ tử thì đừng cho học chữ, may ra sống đến ba mươi tuổi. Người nhà cho là nói bậy. Mẹ Tiểu Thanh vốn là gia sư nên cho con theo học. Được đi lại với nhiều nhà khuê các nên Tiểu Thanh sớm tinh thông nhiều nghề, kể cả âm luật. Năm 16 tuổi cô đi lấy chồng, làm lẽ một công tử quyền quý nhưng ngóc nghếch, không phải kẻ đào hoa phong nhã. Vợ cả lại là người độc ác, cả ghen, bắt cô ở riêng trên núi Cô Sơn, không cho tiếp xúc với chồng. Cô buồn khổ, uất ức, tấm lòng gửi cả vào thơ, từ. Tiểu Thanh cô đơn, đau buồn mà sinh bệnh. Vợ cả sai thầy lang và con hầu mang thuốc đến, có lẽ là thuốc độc, nàng vờ cảm ơn, sau đem vứt đi. Nàng không ăn cơm, chỉ uống nước quả, nhưng chú ý trang điểm và ăn mặc đẹp. Có khi cho gọi cô gái đàn tì bà chơi ít bài mua vui. Một hôm cô nhắn chồng cho mời họa sĩ đến, bảo vẽ chân dung. Vẽ bức thứ nhất, Tiểu Thanh chê chỉ vẽ được hình mà chưa bắt được cái thần. Vẽ bức thứ hai, nàng khen đã nắm đượe thần, nhưng thiếu phong thái, lại bỏ đi. Nàng bảo họa sĩ ngồi chơi quan sát nàng pha trà, vẽ tranh, trò chuyện ...
Hồi lâu bảo họa sĩ vẽ chân dung, được một bức sinh động như thật. Họa sĩ về, Tiểu Thanh đem bức tranh cúng trước sập, thắp hương, rót rượu. Nàng nói : “Tiểu Thanh ơi Tiểu Thanh, lẽ nào đây là duyên phận của mi ?”. Rồi ôm ghế mà khóc, nước mắt như mưa, một cơn xúc động dâng lên rồi chết. Năm đó nàng vừa mười tám tuổi. Chập tối chồng hay tin chạy lại, vén màn thấy dung nhan như sông, xiêm áo tinh tươm, đau đớn khóc to, thổ huyết một thăng. Sau đó, lục lọi tìm được thơ một quyển, chân dung một bức và một phong thư gửi một phu nhân. Bóc thư thấy lời lẽ cực kì đau đớn, bèn khóc to : “Nàng ôi, ta phụ nàng, ta phụ nàng !”. Vợ cả nghe thấy giận quá chạy lại đòi đưa tranh. Chồng giàu bức thứ ba, chỉ đưa bức thứ nhất. Vợ lấy đốt ngay. Lại bảo đưa thơ, vợ lại đốt thơ. Đến khi tìm lần nữa thì không còn gì. Nhưng khi sắp chết Tiểu Thanh đem mấy thứ hoa hột trang sức làm quà cho con gái nhỏ của bà giúp việc, gói bằng hai tờ giấy. Đó chính là bản thảo thơ của nàng, gồm tuyệt cú chín bài, cổ thi một bài, từ một bài, kèm thêm một bài trong bức thư gửi cho phu nhân nào đó, tổng cộng là mười hai bài. Một người họ hàng nhà chồng sưu tập được đem cho khắc in, đặt tên là Phần dư. Chép đến đây, Trương Triều viết : "Hồng nhan bạc mệnh, nghìn năm đau lòng, đọc đến chỗ đưa thuốc độc, đốt tập thơ, tiếc là không thể băm nát xương mụ đàn bà ghen tuông ấy ra mà đem cho chó ăn !”. Lại viết : “Chuyện Tiểu Thanh có người bảo là vốn không có người ấy, chẳng qua là ghép hai chữ “Tiểu” và “Thanh” thành ra chữ “Tình” mà thôi”. Đến khi đọc bài ca Ngô Tử Vân có một bài tựa ngắn, nói rằng Phùng Tiểu Thanh là em gái của Tiểu Thanh ở Duy Dương, lấy chồng là Mã Mạo Bá, người ở Cối Kê, như thể tựa hồ như là có người ấy thật.
Thiết nghĩ nội dung tóm lược trên đây sẽ giúp ta hiểu thêm bài thơ, nhất là khía cạnh ngẫu nhiên, oan trái, khó hiểu của số phận .
Câu 1 : Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư. Nghĩa là vườn hoa bên Hồ Tây đã thành bãi hoang rồi. “Khư” chỉ di tích hoang phế, ở đây gợi cảnh đổi thay, thời gian trôi chảy.
Câu 2 : Độc điếu song tiền nhất chỉ thư. Câu này có mấy cách dịch khác nhau về chi tiết .
Nhóm Bùi Kỷ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh dịch là : Trước song một mình viếng một tập giấy.
Đào Duy Anh : Một mình ngồi trước cửa sổ viết một tờ thư viếng.
Vũ Tam Tập : Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ.
Theo ngữ pháp Hán ngữ cổ, chữ “độc” làm trạng ngữ, chỉ có nghĩa là một mình. “Nhất chỉ thư” có thể hiểu là một tờ thư, ví như trong bài thơ “Sơn cư mạn hứng” của Nguyễn Du. Nhưng ở đây đang nói tới Tiểu Thanh kí, câu này “thừa đề” cho nên “nhất chi thư” là chỉ truyện Tiểu Thanh. “Điếu” đây là bằng điếu, hoài niệm người xưa. Cả câu nên dịch : Một mình nhớ tới nàng qua một tờ giấy chép truyện của nàng.
Câu 3 - 4 :
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Hai câu này cũng được dịch rất khác nhau, thậm chí trái nhau, thể hiện tính mơ hồ, đa nghĩa của câu thơ.
Nhóm Bùi Kỷ : “Son phấn như có thần, sau khi chết, người ta còn thương tiếc. Văn chương có sô' phận gì mà làm cho người ta phải bận lòng đến những bài thơ còn sót lại sau khi đốt”.
Đào Duy Anh : “Son phấn có thần, nên để lại niềm xót thương sau khi chết. Văn chương không có duyên phận nên đốt rồi mà lụy vẫn còn sót lại”.
Vũ Tam Tập : “Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết. Văn chương không có sô' mệnh mà cũng bị đô't dở”.
Trường hợp thứ nhất hiểu “người ta” là chủ ngữ của hai động từ “liên”, “lụy”. Trường hợp thứ hai thì “liên”, “lụy” đã được hiểu là danh từ. Trường hợp thứ ba thì chủ ngữ lại là “son phấn”, “văn chương”. Ta hãy tìm hiểu từng cụm từ. “Son phấn có thần” là nói sắc đẹp có thần sắc, có tinh thần (thế mà lại chết oan), nên chết rồi vẫn khiến người ta thương tiếc mãi. Văn chương là nói các bài thơ, cũng là nói phần tài hoa của nàng. “Vô mệnh” là không có sô' mệnh, đã không có sô' mệnh mà lại chịu sô' phận bị đốt còn thừa lại ! “Phần dư” là đô't dở, là phần đô't còn sót lại . “Lụy” là mang lụy. Đây là hai câu “thực” nói tới nỗi oan trái của Tiểu Thanh.
Cả hai câu đều nói tới sô' phận oan trái của sắc tài.
Câu 5 - 6 :
Cổ kim hận sự thiền nan vấn,
Phong vận kỉ oan ngã tự cư .
Hai câu này tuy được dịch khác nhau, nhưng đại để gặp nhau :
Nhóm Bùi Kỷ : “Sự oán hận xưa nay khó mà hỏi trời được. Nỗi oan phong vận lạ kia, tự mình ta buộc lấy mình”.
Đào Duy Anh : “Mô'i hận cổ kim khó hỏi trời. Oan lạ của người phong vận ta cũng tự thấy có mình ở trong ấy”.
Vũ Tam Tập : “Những mô'i hận cổ kim, khó mà hỏi trời được. Ta tự coi như người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã”.
Đây là cặp câu “luận” bàn về sự đời, nhà thơ nói tới sự khó hiểu, vô lí của sô' phận. Đáng chú ý là câu sáu nhà thơ nói : Ta củng tự coi như rơi vào cái oan lạ lùng của kiếp phong nhã (như của nàng). Hiểu theo ý trên thì Nguyễn Du hẳn phải có oan trái gì sâu sắc lắm, hiểu theo ý dưới thì tấm lòng nhà thơ hoàn toàn đồng cảm với Tiểu Thanh. Câu này với sự xuất hiện từ “tâ\ngã) báo hiệu chuyển mạch, nói tói “Tô' Như’ trong câu kết.
Câu 7 - 8 :
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?
Hai câu này chữ nghĩa không khó hiểu, các bản dịch đại để đều như nhau. Hiện nay chưa có tài liệu để giải thích tại sao lại “ba trăm năm lẻ”, nhưng ta có thể hiểu nỗi hi vọng được lặp lại sự việc đã có của người trung đại - Con người do khí sinh tụ mà thành, khí vũ trụ vận chuyển và những con người đồng khí 
lại tái sinh hoặc gặp nhau. Tư Mã Thiên từng nói cứ năm trăm năm trong lịch sử lại xuất hiện một con người vĩ đại. Trương Hành, nhà thiên văn học đời Hán (78 - 139) trong bài Đồ lâu phú đã trò chuyện với đầu lâu của Trang Tử, người sông trước ông khoảng bốn trăm năm. Như người đồng điệu. Nguyễn Du đã thương khóc Thúy Kiều và Tiểu Thanh sông vào giữa và cuối thế kỉ XVI, hẳn ông cũng chờ mong sau mấy trăm năm có người lại xuất hiện để khóc ông ?
Bài thơ còn có những điều chưa rõ, nhưng tấm lòng thương người, tiếc tài, mong gặp được người đồng điệu thông cảm là rất rõ. Tấm lòng ấy đương thời các bạn ông đã cảm phục và ngày nay cả dân tộc, cả nhân loại đã hiểu ông.
Nguyền Du, người đã tiếp nối và làm phong phú dòng chảy chủ nghĩa nhân đạo trong văn chương, Với Đọc Tiểu Thanh kí, Nguyễn Du xứng đáng là người bảo vệ, trân trọng cái đẹp, cái tài hoa trong chế độ phong kiến đầy bất công và lừa lọc.
Đặng Cao Sửu
Đề 2 : Phân tích bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du.
Dàn bài chi tiết
Mở bài
Nguyễn Du - đại thi hào dân tộc, nhà thơ hiện thực và nhân đạo lớn nhất trong văn học Việt Nam thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX - không chỉ nổi tiếng với “Truyện Kiều” mà ông còn là nhà thơ sáng tác bằng chữ Hán điêu luyện.
“Thanh Hiên thi tập” là những sáng tác bằng chữ Hán thể hiện tình cảm sâu sắc của Nguyễn Du với thân phận con người - nạn nhân của chế độ phong kiến.
Trong đó, Đọc Tiểu Thanh kí là một trong những sáng tác được nhiều người biết đến, thể hiện sâu sắc tư tưởng Nguyễn Du và làm người đọc xúc động vì tình cảm nhân đạo cao cả của nhà thơ.
Thân bài
Định hướng phân tích :
Đọc Tiểu Thanh kí có nghĩa là “đọc tập Tiểu Thanh kí” của nàng Tiểu Thanh. Đó là người con gái có thật, sông cách Nguyễn Du 300 năm trước ở đời Minh (Trung Hoa). Nàng là người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng vì làm lẽ nên bị vợ cả ghen, đày ra sông ở Cô Sơn cạnh Tây Hồ. Buồn rầu, nàng sinh bệnh chết và để lại tập thơ. Nhưng vợ cả vẫn ghen nên đốt tập thơ, chỉ còn lại một ẵố bài thơ tập hợp trong “phần dư”. Bản thân cuộc đời Tiểu Thanh cũng đã để lại niềm thương cảm sâu sắc cho Nguyễn Du.
Cảm hứng xuyên suốt toàn bài được diễn tả trong khuôn khổ cô đúc của thể thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Nguyễn Du khóc người cũng để tự thương mình. Dù là cảm xúc về một cuộc đời bất hạnh đã cách ba trăm năm, nhưng thực chất cũng là tâm sự của nhà thơ trước thời cuộc.
Chi tiết :
a. Hai câu đề : Hai câu mở đầu của bài thơ giúp người đọc hình dung ra hình ảnh của nhà thơ trong giờ phút gặp gỡ với tiếng lòng của Tiểu Thanh :
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
(Tây hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.)
Hai cầu thơ dịch đã thoát ý nguyên tác nên làm giảm đi phần nào hàm ý súc tích của câu thơ chữ Hán. Nguyễn Du không nhằm tả cảnh đẹp Tây Hồ mà chỉ mượn sự thay đổi của không gian để nói lên một cảm nhận về biến đổi của cuộc sông. Cách diễn đạt vừa tả thực vừa gợi ý nghĩa tượng trưng. “Tây hồ hoa uyển” (vườn hoa Tây Hồ) gợi lại cuộc sông lặng lẽ của nàng Tiểu Thanh ở vườn hoa cạnh Tây Hồ - một cảnh đẹp nổi tiếng của Trung Hoa. Nhưng hàm ý tượng trung được xác lập trong mối quan hệ giữa “vườn hoa - gò hoang”. Dường như trong cảm quan Nguyễn Du, những biến thiên của trời đất đều dễ khiến ông xúc động. Đó là nỗi niềm “bãi bể nương dâu” ta đã từng biết ở Truyện Kiều. Nhìn hiện tại để nhớ về quá khứ, câu thơ trào dâng một nỗi đau xót ngậm ngùi cho vẻ đẹp chỉ còn trong dĩ vãng.
Trong không gian điêu tàn ấy, con người xuất hiện với dáng vẻ cô đơn, như thu mọi cảm xúc trong hai từ “độc điếu”. Một mình nhà thơ ngậm ngùi đọc một tập sách (nhất chỉ thừ). Một mình đốì diện với một tiếng lòng Tiểu Thanh 300 năm trước, câu thơ như thể hiện rõ cảm xúc trang trọng thành kính với di cảo của Tiểu Thanh. Đồng thời cũng thể hiện sự lắng sâu trầm tư trong dáng vẻ cô đơn. Cách đọc ấy cũng nói lên được sự đồng cảm của nhà thơ với Tiểu Thanh, “điếu” là bày tỏ sự xót thương với người xưa. Không phải là tiếng “thổn thức” như lời thơ dịch, mà nước mắt lặng lẽ thấm vào trong hồn nhà thơ.
b. Hai câu thực :
Hai câu thực đã làm sáng tỏ cho cảm giác buồn thuơng ngậm ngùi trong hai câu đề :
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
(Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.)
Nhà thơ mượn hai hình ảnh “son phấn” và “văn chương” để diễn tả cho những đau đớn dày vò về thể xác và tinh thần của Tiểu Thanh gửi gắm vào những dòng thơ. Theo quan niệm xưa, “son phấn” - vật trang điểm của phụ nữ có tinh anh (thần) vì gắn với mục đích làm đẹp cho phụ nữ. Cả hai câu thơ cùng nhằm nhắc lại bi kịch trong cuộc đời Tiểu Thanh - một cuộc đời chỉ còn biết làm bạn với son phấn và văn chương để nguôi ngoai bất hạnh.
Mượn vật thể để nói về người. Gắn với những vật vô tri vô giác là những từ ngữ chỉ tính cách, số phận con người như “thần” và “mệnh”. Lốì nhân cách hóa thể hiện rõ cảm xúc xót xa của nhà thơ về những bất hạnh của kỉếp người qua sô' phận của Tiểu Thanh. Kết cục bi thảm của Tiểu Thanh xuất phát từ sự ghen tuông, lòng đô' kị tài năng của người đời. Dù chỉ là những đồ vật vô tri vô giác thì chúng cũng phải chịu sô' phận đáng thương như chủ nhân : son phấn bẽ bàng, văn chương đốt dở. Hai câu thơ đã gợi lên sự tàn nhẫn của bọn người vô nhân trước những con người tài hoa. Đồng thời, cũng thể hiện nhận thức của Nguyễn Du vón rất nhạy cảm trước cuộc đời của khách “hồng nhan bạc phận”, gắn với quan niệm “tài mệnh tương đố” của Nho gia. Vật còn như thế, huống chi người ! Vượt lên trên những ảnh hưởng của thuyết thiên mệnh là cả tấm lòng giàu cảm thương của Nguyễn Du.
Hai câu luận :
Từ sô' phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã khái quát thành cái nhìn về con người trong xã hội phong kiến :
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.)
Nỗi oan của Tiểu Thanh không phải chỉ của riêng nàng mà còn là kết cục chung của những người có tài từ “cổ” chí “kim”. Nhà thơ gọi đó là “hận sự’, một mốì hận suốt đời nhắm mắt chưa yên. Trong suy nghĩ ấy, có lẽ Nguyễn Du còn liên tưởng đến bao cuộc đời như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ - những người có tài mà ông hằng ngưỡng mộ - và bao người tài hoa bạc mệnh khác nữa. Những oan khuất bế tắc của nghìn đời “khó hỏi trời” {.thiên nan vắnỴ Câu thơ đã giúp ta hình dung rõ cuộc sông của những nạn nhân chế độ phong kiến, dồn nén thái độ bất bình uất ức của nhà thơ với thời cuộc, đồng thời cũng thể hiện một sự bế tắc của Nguyễn Du.
Khóc người để-thương mình, cảm xúc đồng điệu đã làm thành câu thơ bất hủ “phong vận kì oan ngã tự cư” (Ta tự cho mình cũng ở trong sô' những kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã), ớ đó là tình cảm chân thành đồng điệu của Nguyễn Du, cũng thể hiện tầm vóc lớn lao của chủ nghĩa nhân đạo rất đẹp và rất sâu của ông.
Không phải chỉ một lần nhà thơ nói lên điều này. Ông đã từng hóa thân vào nàng Kiều để khóc thay nhân vật, ông đã từng khẳng định một cách đầy ý thức “thuở nhỏ, ta tự cho là mình có tài”. Cách trông người mà ngẫm đến ta ấy, trong thi văn cổ điển Việt Nam trước ông có lẽ hiếm ai thể hiện sâu sắc như vậy. Tự đặt mình “đồng hội đồng thuyền” với Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã tự phơi bày lòng mình cùng nhân thế. Tâm sự chung của những người mắc “kì oan” đã được bộc bạch trực tiếp mạnh mẽ trong tiếng nói riêng tư khiến người đọc cũng không khỏi ngậm ngùi. Tâm sự ấy không chỉ của riêng Nguyễn Du mà còn là nỗi niềm của các nhà thơ thời bấy giờ.
Hai câu kết :
Khép lại bài thơ là những suy tư của Nguyễn Du về thời thế :
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiền hạ hà nhân kliẩp Tố Như.
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng.)
Khóc cho nàng Tiểu Thanh ba trăm năm trước bằng giọt lệ chân thành của trái tim đồng điệu, dòng suy tưởng đã đưa nhà thơ đến ba trăm năm sau cùng một mô'i hồ nghi khó giải tỏa. Tiểu Thanh còn có tấm lòng tri kỉ của Nguyễn Du tìm đến để rửa những oan khiên bằng giọt nước mắt đồng cảm. Còn nhà thơ tự cảm thấy sự cô độc lẻ loi trong hiện tại. Câu hỏi người đời sau ẩn chứa một khát kháo tìm gặp tấm lòng tri âm tri kỉ giữa cuộc đời. (Đó cũng là tâm trạng của Khuất Nguyên - “người đời say cả, một mình ta tỉnh”, cách Nguyễn Du hai nghìn năm ; của Đỗ Phủ, cách Nguyễn Du một nghìn năm : “Gian nan khổ hận phồn sương mấn”.)
* Nhà thơ tự thế hiện mình bằng tên chữ “Tố Như” không phải mong “lưu danh thiên cổ” mà chỉ là tâm sự của một nỗi lòng tha thiết với cuộc đời. Câu thơ còn là tâm trạng bi phẫn của nhà thơ trước thời cuộc. Khóc người xưa, nhà thơ tự khóc cho chính mình, giọt lệ chảy quanh kết lại một bóng hình Nguyễn Du, lặng lẽ cô đơn khiến người đọc phải se lòng khi ngẫm đến những nỗi đau thấm thìa và dày vò tinh thần của những người tài hoa phải sông trong bóng đêm hắc ám của một xã hội rẻ rúng tài năng.
Kết bài
Đã hơn hai trăm năm trôi qua, bài thơ của Nguyễn Du vẫn còn lun giữ một tấm lòng với con người sâu sắc và chân thành. Đó là tình cảm không biên giới, vượt thời gian, xuất phát từ gốc rễ “thương người như thể thương thân” của dân tộc.
Không phải đợi đến ba trăm năm sau, ánh sáng của thời đại mới đã làm sáng mãi tên tuổi của Nguyễn Du trong lòng dân tộc, tên tuổi Tô" Như đã làm vinh danh dân tộc Việt Nam. Cuộc sông đã đổi thay, nhiều niềm vui của dân tộc đang nhân lên trước cánh cửa vào thế kỉ XXI, thế nhưng chúng ta vẫn trân trọng và cảm thông nỗi buồn của Nguyễn Du - nỗi buồn thời đại quá khứ. Thời đại mới giải tỏa cho những bế tắc của Nguyễn Du và thời đại của ông, tiếp thu tinh thần nhân bản dân tộc ấy :
Hỡi Người xưa của ta nay
Kliúc vui xin lại so dây cùng Người
(Kính gửi Cụ Nguyễn Du-tố Hữu)
Trần Hà Nam