Soạn bài Cô bé bán diêm (trích)

  • Cô bé bán diêm (trích) trang 1
  • Cô bé bán diêm (trích) trang 2
  • Cô bé bán diêm (trích) trang 3
  • Cô bé bán diêm (trích) trang 4
  • Cô bé bán diêm (trích) trang 5
  • Cô bé bán diêm (trích) trang 6
  • Cô bé bán diêm (trích) trang 7
cô BÉ BÁN DIÊM
(Trích Truyện An-đéc-xen)
KIẾN THỨC Cơ BẢN
A. Giới thiệu :
Vài nét về tác giả :
An-déc-xen (1805 — 1875) là nhà văn Đan Mạch nổi tiếng với những truyện viết cho trẻ em. Nhiều truyện ông biên soạn lại từ truyện cổ tích, nhưng cũng có những truyện do ông hoàn toàn sáng tạo ra. An-đéc-xen có những truyện nổi tiếng thế giới như : Cô bé bán diem, Bầy chim thiên nga, Nàng tiên cá, Bộ quần áo mới của hoàng dể, Nàng công chúa và hạt đậu,... Truyện của ông nhẹ nhàng, tươi mát, toát lên lòng thương yêu con người, nhất là những con người nghèo khổ, và niềm tin vào sự thắng lợi cuối cùng của điều tốt đẹp trên thế gian.
Truyện Cô bé bán diêm kể về một em bé gái, nhà nghèo, mồ côi mẹ, bô' bắt đi bán diêm. Suốt cả ngày cuối năm, em chẳng bán được bao diêm nào và cũng không được bô' thí đồng xu nào ; em không dám về nhà vì sợ bô' đánh. Vừa đói vừa rét, em lang thang trên đường phô' giữa đêm giao thừa lạnh lẽo. Thèm hơi ấm, em quẹt một que diêm và bỗng thấy hiện ra một lò sưởi ấm áp. Que diêm cháy hết, lò sưởi cũng vụt biến mất. Em quẹt que diêm thứ hai, hiện ra một bàn ăn thịnh soạn ; rồi bàn ăn cũng biến mất khi que diêm lụi tàn. Em quẹt que diêm thứ ba, lần này hiện ra một cây thông Nô-en lớn và trang trí lộng lẫy với hàng ngàn ngọn nến sáng rực. Diêm tắt, cây thông biến mất, “tất cả các ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời”. Trong ánh sáng của que diêm thứ tư, hiện ra hình ảnh bà nội hiền hậu - người độc nhất yêu thương em - đã mất từ lâu. Em nhìn thấy bà nội đang mỉm cười với mình. Em bé sung sướng reo lên, xin bà cho em được đi theo. Que diêm tắt, bà nội vụt biến mất. Em hô'i hả quẹt tất cả các que diêm còn lại trong bao để níu bà lại... Sáng hôm sau, trong đông tuyết phủ kín mặt đất, người ta thấy thi thể một bé gái ngồi giữa những bao diêm, trong đó có một bao đã hết nhẵn.
+ Truyện có bô' cục gồm ba phần :
Phần 1 : (từ “Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực...” đến “...đôi bàn tay em đã cứng đờ ra”) kể về tình cảnh đáng thương của cô bé bán diêm.
Phần 2 : (từ “Chà ! Giá có một que diêm...” đến “...Họ đã về chầu Thượng Đế'’) kể về cuộc giao tranh giữa thực tê' và mộng tưởng, qua đó làm nổi bật sô' phận bất hạnh và vẻ đẹp tâm hồn của cô bé.
Phần còn lại : kể về cái chết thương tâm của em bé bán diêm.
B. Đọc - Hiểu văn bản :
Tình cảnh đáng thương của cô bé :
Cô bé mồ côi mẹ, sông trong cảnh nghèo khổ với người bô' lạnh lùng, tàn nhẫn. Hai cha con sông chui rúc trong một xó tô'i tăm, trên gác sát mái nhà. Em phải đi bán diêm để kiếm sông. Trong đoạn trích, nhà văn đã xây dựng những hình ảnh tương phản giữa em bé và hoàn cảnh bên ngoài để tô đậm tình cảnh tội nghiệp của em. Đêm giao thừa, trời Đan Mạch rét buốt, gió rít, tuyết rơi. Em bé thì đầu trần, chân đi đất, lang thang ngoài đường. Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn, em bé thì dò dẫm trong bóng tô'i lạnh buốt ngoài đường. Trong phố sực nức mùi ngỗng quay, mà em thì bụng đói cồn cào vì cả ngày chưa ăn uống gì. Vô cùng đáng thương là hình ảnh em bé phải chịu đựng tất cả đói, rét, và khổ sở như thế mà không dám về nhà vì sợ bố đánh. Càng đáng thương hơn khi ta nhận ra một sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại của em. Dĩ vãng là “những ngày đầm ấm” “sông trong ngôi nhà xinh xắn có dây trường xuân bao quanh”, có tình thương của bà nội hiền hậu. Hiện tại là cái “xó tối tăm”, chỉ có gió thổi rít vào trong nhà qua các kẽ hở lớn trên vách, chỉ có những lời mắng nhiếc chửi rủa của bô'. Và lúc này đây, lúc mọi người đều ở nhà đón một đêm giao thừa rực rỡ và ấm áp thì em đang ở ngoài đường, ngồi nép trong một góc tường giữa hai ngôi nhà, mỗi lúc một thêm rét buốt, đôi bàn tay em đã cứng đờ ra.
Cuộc giao tranh giữa thực tê' và mộng tưởng :
Giữa tình cảnh khổ sở vì đói rét, em bé nghĩ gì ? Chỉ là một niềm ước mong hồn nhiên, đơn giản đến tội nghiệp : “Giá quẹt một que diêm mà sưởi cho đỡ rét một chút nhỉ ? Giá em có thể rút một que diêm ra quẹt vào tường mà hơ ngón tay nhỉ ?”. Ngọn lửa của que diêm bùng lên trong niềm vui giản dị, trong trẻo của em bé. Trong ánh sáng kì diệu rực rỡ những sắc màu, em tưởng chừng như đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng, trong lò lửa cháy nom đến vui mắt và toả ra hơi nóng dịu dàng. Que diêm tắt, em bần thần cả người và nghĩ đến chuyện về nhà sẽ bị cha mắng.
Que diêm thứ hai cháy lên, hiện ra trước mắt em là một bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay. Thật ngộ nghĩnh và kì diệu là hình ảnh ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa, mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé. Que diêm tắt, trước mặt em chỉ còn là những bức tường dày đặc và lạnh lẽo, chỉ có phô' xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xoá, gió bấc vi vu và những người khách qua đường quần áo ấm áp mà nét mặt lãnh đạm.
Trong ánh sáng của que diêm thứ ba, em thấy hiện ra một cây thông Nô- en lớn và trang trí lộng lẫy với hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ. Diêm tắt, tất cả các ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời.
Rét, người ta cần hơi ấm. Đói, người ta cần miếng ăn. Trong bóng tối, người ta thèm ánh sáng. Những điều bình thường và hiển nhiên ấy đã được nhà văn thể hiện một cách hấp dẫn qua trí tưởng tượng phong phú, ngộ nghĩnh và niềm khao khát tội nghiệp của trẻ thơ. Lò sưởi, bàn ăn, cây thông Nô-en, tất cả là gương mặt cụ thể của niềm mơ ước đang hiện ra trong ánh sáng lung linh những sắc màu cổ tích. Vì là mơ ước, là mộng tưởng nên tất cả chỉ là những ảo ảnh thoáng qua rồi vụt tắt trước thực tế phũ phàng. Nhưng dẫu sao, chúng cũng đem lại những khoảnh khắc hạnh phúc cho em bé.
Xúc động nhát là lần mộng tưởng cuối cùng của em bé. Que diêm thứ tư sáng lên, em bé nhìn thấy rõ ràng bà em đang mỉm cười với em. Em bé sung sướng đến reo lên, cuông quýt van xin bà cho em đi theo. Lần này, em bé không hoàn toàn chìm trong mộng tưởng, mà chỉ ở trong trạng thái nửa thực nửa mơ. Em vẫn biết rằng khi diêm tắt thì bà củng biến đi mất như lò sưởi, ngỗng quay và cây Nô-en ban nãy. Em biết rằng bà đã về với Thượng đế chí nhân nhưng lại van bà xin Thượng đế chí nhân cho cháu về với bà. Và em tin rằng chắc Người không từ chối đâu. Thật xót xa khi nghĩ rằng giữa cuộc đời khổ sở và cô đơn, em khao khát tình thương và vẫn tin vào lòng nhân từ, tin vào điều tốt đẹp. Em chỉ thực sự sông trong tưởng tượng với hình ảnh người bà hiền hậu đã chết từ lâu. Bà nội là tình thương, là niềm an ủi, là chỗ nương tựa tinh thần duy nhất của em, cho nên lúc này em rất sợ bà sẽ bỏ đi. Tất cả những que diêm còn lại được dot lên, nôi nhau chiếu sáng. Đó cũng là ánh sáng của trái tim em đang cháy lên những mơ ước diệu kì, cháy lên niềm khao khát được sông trong tình thương. Hình ảnh bà nội to lớn và đẹp lão phải chăng là biểu tượng của tình thương lớn lao và đẹp đẽ ! Cái chết của em được miêu tả bằng một hình ảnh đẹp tuyệt vời như huyền thoại : “Bà cụ cầm lấy tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe doạ họ nữa. Họ đã về chầu Thượng đế”. Bằng tất cả tình thương yêu của mình, nhà văn muôn miêu tả sự ra đi của em như một sự từ bỏ cuộc đời đầy những đau khổ mà lại thiếu tình thương để đến với thế giới của tình thương.
Cái chết thương tâm của em bé bán diêm :
Hình ảnh em bé thật thương tâm : ở một xó tường, chết vì giá rét trong đêm giao thừa, ngồi giữa những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhẵn. Nhưng dường như chẳng ai xúc động, người ta chỉ lạnh lùng bảo nhau: “Chắc nó muôn sưởi cho ấm !”. Chỉ có nhà văn thông cảm và thương yêu em, nên mới miêu tả thi thể em với đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Nhà văn còn hình dung ra cả niềm hạnh phúc của em trong cảnh huy hoàng : hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm.
c. Tổng kết :
Tác phẩm “Cô bé bán diêm” của nhà văn Đan Mạch An-đéc-xen có nghẹ thuật kể chuyện hấp dẫn, đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng, với các 43
tình tiết diễn biến hợp lí, truyền cho chúng ta lòng thương cảm sâu sắc đối với một em bé bất hạnh. Tác phẩm giàu giá trị nhân văn, và càng đặc biệt có ý nghĩa khi nào cuộc sống còn những sô'phận trẻ thơ bất hạnh.
ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn và câu chuyện xúc động chứa chan tình cảm nhân ái của An-đéc-xen qua truyện “Cô bé hán diêm”.
DÀN Ý
MỞ bài :
+ Giới thiệu nhà văn An-đéc-xen và tác phẩm Cô bé bán diêm.
+ Sức hấp dẫn của tác phẩm gắn liền với nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn
và câu chuyện xúc động chứa chan tình cảm nhân ái của nhà văn.
Thân bài :
Tổng :
+ Giới thiệu nhân vật sẽ phân tích : cô bé bán diêm nghèo khổ.
+ Cách kể chuyện nhập vai của nhà văn dẫt dắt người đọc đi sâu vào
tâm trạng cô bé.
Phân :
Khung cảnh lạnh giá của đêm giao thừa :
+ Các ngôi nhà ấm áp và mùi ngỗng quay đối lập với ngoài trời gió tuyết, mưa lạnh
+ Dòng hồi tưởng của cô bé về dĩ vãng tươi đẹp và bà nội hiền từ nhân hậu đô'i lập với thực tại vừa đói vừa rét. Cô bé đáng thương vì có cuộc sông đắng cay, thiếu tình thương và sự quan tâm của người cha, luôn phải sông trong sợ hãi.
Những ánh lửa diêm và thế giới ảo mộng :
+ Que diêm thứ nhất : hình ảnh lò sưởi ấm áp gắn với thực tại phải chông chọi cái giá rét khắc nghiệt. Cảm giác vui thích của cô bé khi chứng kiến ánh sáng của ngọn lửa mở ra một thế giới ảo tưởng huy hoàng.
+ Que diêm thứ hai : bàn ăn và ngỗng quay gắn với thực tại bụng đói cồn cào. Cô bé chống chọi cái đói bằng giấc mơ.
+ Que diêm thứ ba : hình ảnh cây thông Nô-en gắn với khát khao được vui chơi của tuổi thơ sớm phải chịu thiệt thòi vì hoàn cảnh nghèo khổ.
+ Que diêm thứ tư : em bé được gặp lại bà nội đã khuất. Thực ra đây không còn là ảo mộng mà là sự thực trước phút em bé bị chết rét. Nhưng tấm lòng nhà văn đã để em có những khoảnh khắc hạnh phúc được sông trong tình thương.
+ Ánh sáng huy hoàng đón em về trời cùng bà chính là lời tiễn đưa đầy thương cảm dành cho một em bé ngoan.
Buổi sáng đầu năm mới :
+ Sự vô cảm của mọi người trước cái chết của em bé.
+ Tình cảm nhà văn bộc lộ trực tiếp như muôn dành lời an ủi cho một sô' phận bất hạnh.
Hợp :
+ Đánh giá ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm, bức thông điệp giàu tình người.
+ Câu chuyện xúc động lòng nguời còn nhờ ở tài kể chuyện của An-đéc- xen, tạo được những đồng cảm cho người nghe, người đọc. c. Kết bài :
Nêu cảm nghĩ riêng về vẻ đẹp tâm hồn và sô' phận bất hạnh của cô bé bán diêm : Liên hệ thực tiễn để rút ra bài học về lòng nhân ái.
BÀI VIẾT GỢI ý
Ai đã từng đọc Cô bé bán diêm của nhà văn Đan Mạch An-đéc-xen hẳn sẽ không thể nào quên những ánh lửa diêm nhỏ nhoi bùng lên giữa đêm giao thừa giá rét gắn với một thê' giới mộng tưởng thật đẹp của cô bé nghèo khổ. Kết cục câu chuyên thật buồn nhưng sức ám ảnh của những giấc mơ tuyệt đẹp vẫn ắp đầy tâm trí người đọc, người nghe qua những lời kể và sự miêu tả rất cuô'n hút của An-đéc-xen.
Trong bóng tô'i và cái rét cất thịt da của xứ sở Đan Mạch, ta như nhìn thấy rõ một cô bé đôi môi tím tái, bụng đói cồn cào đang lần từng bước chân trần trên hè phô'. Một cô bé mồ côi khôn khổ, không dám về nhà vì chưa bán được bao diêm nào thì sẽ bị cha đánh. Nhà văn đã tạo ra cảm giác thật sống động khi ông nhập vào những khoảnh khắc tâm trạng của cô bé.
Ấn tượng đậm nét đầu tiên khơi lên mô'i cảm thương chính là hình ảnh cô bé như lọt thỏm giữa cái mênh mông của bóng đêm vào thời khắc sắp giao thừa. Khi “mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phô' sực nức mùi ngỗng quay”, cô bé đã hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp khi bà nội hiền hậu còn sông. Ngôi nhà xinh xắn với những dầy trường xuân trong những ngày đầm ấm tương phản với thực tại cuộc sông của hai cha con trong một xó tô'i tăm, sự nghèo khổ kéo theo những lời mắng nhiếc chửi rủa của người cha khi gia sản đã tiêu tán. Để nguôi cảm giác lạnh, em đã “ngồi nép trong một góc tường”, “thu đôi chân vào người” nhưng có lẽ chính nỗi sợ hãi còn mạnh hơn giá rét đã khiến em “càng thấy rét buốt hơn”. Em không thể về vì biết “nhất định cha em sẽ đánh em”, “ở nhà cũng rét thê' thôi”, điều đáng sợ nhất đô'i với cô bé không phải là thiếu hơi ấm mà là thiếu tình thương. Thật đáng thương khi thân hình bé nhỏ của em phải chông chọi vô vọng với cảm giác giá buốt bên ngoài và cái lạnh từ trong trái tim khiên “đôi bàn tay em đã cứng đờ ra”.
Lúc ấy, em chỉ ao ước một điều thật nhỏ nhoi: “Chà ! Giá quẹt một que diêm mà sưởi cho đỡ rét một chút nhĩ.?” nhưng dường như em cũng không đủ can đảm vì làm như vậy em sẽ làm hỏng một bao diêm không bán được. Nhưng rồi cô bé ấy cũng “đánh liều quẹt một que”, để bắt đầu cho một hành
trình mộng tưởng vượt lên thực tại khắc nghiệt. Giấc mơ của em bắt đầu từ lúc nhìn vào ngọn lửa : “lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt”. Ánh sáng ấy đã lân át đi cảm giác của bóng tối mênh mông, để hiện lên hình ảnh “một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng”. Niềm vui thích của em đến trong ảo giác “lửa cháy nom đến vui mắt và toả ra hơi nóng dịu dàng”. Đó là ước mơ thật đơn giản trong khi thực tế lại phũ phàng “tuyết phủ kín mặt đất, gió bấc thổi vun vút... trong đêm đông rét buốt”. Ước ao được ngồi hàng giờ “trước một lò sưởi” cũng biến tan khi “lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất”. Khoảnh khắc em “bần thần cả người” khi hình dung ra những lời mắng chửi của cha khiến ta phải nao lòng. Bóng tốì lại phủ lên màu u ám trong tâm hồn em.
Có lẽ vì vậy, nhà văn đã để em tiếp tục thắp lên que diêm thứ hai, thắp lên niềm vui nhỏ nhoi dù chỉ là trong mộng tưởng. Không chỉ phải chống chọi với cái rét, cô bé còn phải cầm cự với cơn đói khi cả ngày chưa có miếng nào vào bụng. Bởi thế, ánh sáng rực lên của ngọn lửa diêm đã biến bức tường xám xịt thành “tấm rèm bằng vải màu”. Cái hạnh phúc trong những ngôi nhà ấm áp đã đến với em, khi em nhìn thấy : “Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay”. Giá như tất cả những hình ảnh tưởng tượng biến thành hiện thực thì em sẽ vui sướng biết bao, khi “ngỗng nhảy ra khỏi đĩa” sẽ mang đến cho em bữa ăn thịnh soạn để vượt lên phút đói lả người. Nhưng một lần nữa, ảo ảnh lại vụt biến, em lại phải đối mặt với “pbn xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xoá, gió bấc vi vu”. Không những thế, em còn chứng kiến sự thờ ơ ghẻ lạnh của những người qua đường, hình ảnh tương phản được nhà văn khắc họa làm ta nhói đau trước em bé bất hạnh.
Và một lần nữa, que diêm tiếp theo lại sáng bừng lên, để em được sông trong những giấc mơ đẹp nhất của một em bé. Trong một cuộc sống phải từng phút từng giây vật lộn mưu sinh, em đã phải từ giã những niềm vui được đùa chơi của con trẻ. Ánh sáng từ que diêm đã toả ra vầng hào quang lộng lẫy, cho em “một cây thông Nô-en”, như đem đến cho em một thiên đường của tuổi thơ : “Hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức bày trong tủ hàng”. Điều trớ trêu nghiệt ngã là tất cả những hình ảnh tươi đẹp ấy em chỉ kịp nhìn nhưng không thể chạm tay vào, bởi lẽ tất cả chỉ là ảo ảnh, như những ngôi sao trên trời mà em không thể với tới. Trái tim ta như nghẹn lại cùng lời kể của nhà văn, bởi lẽ em bé đang dần kiệt sức và sắp phải gục ngã trước cái lạnh chết người của xứ sở bà chúa Tuyết.
Trong giây phút cuối cùng của đời em, có lẽ nhà văn không muôn người đọc phải chứng kiến một cái chết thảm thương vì rét, vì đói, vì thiếu tình thương và niềm vui trong cuộc đời khôn khổ của cô bé, nên đã cho em rất nhiều ánh lửa và niềm vui được gặp lại bà nội hiền hậu mà em rất mực kính 46
yêu. Hình ảnh bà hiện lên trong những phút cuỗì cùng của em bé không hẳn là ảo ảnh mà chính là sự thực đã được nhìn qua tâm hồn thánh thiện của em. Bà em hiện ra với nụ cười như ban cho em diễm phúc được sông lại quãng đời ấm áp đầy tình thương thuở trước. Tiếng reo của em khi gặp lại bà cùng những lời cầu xin ngây thơ là tiếng nói cuôì cùng của một người sắp giã từ trần thế. Em được sống với niềm vui trọn vẹn của riêng mình nhưng chúng ta có lẽ khó ai cầm được dòng nước mắt : “Dạo ấy, bà đã tùng nhủ cháu rằng nếu cháu ngoan ngoãn, cháu sẽ được gặp lại bà, bà ơi ! Cháu van bà, bà xin Thượng Đế chí nhân cho cháu về với bà. Chắc Người không từ chối đâu.”. Trong lời tâm sự ấy, ta hiểu được sự thực về cuộc đời nghiệt ngã và bất công mà em đang hứng chịu. Điều em cần chính là tình thương thật sự trong một thế giới bao dung và nhân hậu. Bởi thế, cái chết đối với em không còn là một điều đáng sợ. Em được về với bà, đến một thế giới khác “chẳng còn đói rét, buồn đau nào đe doạ”. Nhà văn đã để chính đôi tay bé nhỏ của em thắp lên Ánh sáng - “diêm nối nhau chiếu sáng như giữa ban ngày” - để em được thấy bà em “to lớn và đẹp lão” đến đón em cùng bay vào thế giới ước mơ trong ánh sáng huy hoàng xua hết tối tăm đè nặng cuộc đời em.
Câu chuyện kết thúc. Ngày mới lại bắt đầu, “mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên bầu trời xanh nhợt”. Sự sốhg vẫn tiếp diễn, mọi người đón “ngày mồng một đầu năm hiện lên trên thi thể em bé ngồi giữa những bao diêm”, nhìn em để buông ra lời nhận xét thờ ơ : “chắc nó muôn sưởi cho ấm”. Không ai được biết những cái kì diệu em đã trông thấy, chỉ duy nhất một người chứng kiến được “cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lền để đón lấy những niềm vui đầu năm”, đó chính là nhà văn. Ông đã cúi xuống nỗi đau của một em bé bất hạnh, kể cho ta nghe câu chuyện cảm động này bằng tất cả tình yêu thương vô bờ bến đối với trẻ thơ và những con người nghèo khổ. An-đéc-xen đã cất lên tiếng nói cảnh tỉnh những trái tim đông cứng như băng giá, gửi bức thông điệp của tình thương đến với mọi người.
Cô bé bán diêm đã để lại trong ta bao niềm thương cảm, nhắc nhở chúng ta không được lãng quên bao cuộc đời bất hạnh thiếu tình thương. Như bao nhiêu câu chuyện sông mãi cùng thời gian của An-đéc-xen, tác phẩm đã đem đến cho ta bài học về lòng nhân ái.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
Truyện An-đéc-xen là một mảng thời thơ ấu của bất cứ người Đan Mạch nào. Thiên tài của ông khiến chúng cũng là của người lớn. Những truyện đó không những là truyện truyền thống của trẻ em, mà còn chứa đựng nhiều yếu tố huyền thoại, truyền thuyết, phản ánh qua một thế giới không thực những ước mơ và truyền thống của cả một dân tộc.
(Lời giới thiệu Truyện cổ An-đéc-xen - Niels Julius Lassen)