Soạn bài Hai chữ nước nhà (trích)

  • Hai chữ nước nhà (trích) trang 1
  • Hai chữ nước nhà (trích) trang 2
  • Hai chữ nước nhà (trích) trang 3
  • Hai chữ nước nhà (trích) trang 4
  • Hai chữ nước nhà (trích) trang 5
  • Hai chữ nước nhà (trích) trang 6
  • Hai chữ nước nhà (trích) trang 7
  • Hai chữ nước nhà (trích) trang 8
HAI CHỮ NƯỚC NHÀ
{Trần Tuấn Khải)
KIẾN THỨC Cơ BẢN
Giới thiệu :
Vài nét về tác giả :
Trần Tuấn Khải (1895 - 1983), bút hiệu Á Nam, quê làng Quang Xán, xã Mĩ Hà, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định, ông thường mượn những đề tài lịch sử hoặc những biểu tượng nghệ thuật bóng gió để bộc lộ nỗi đau mất nước, nỗi căm giận bọn cướp nước và bè lũ tay sai, nhằm khích lệ tinh thần yêu nước của đồng bào và bày tỏ khát vọng độc lập tự do của mình. Thơ Trần Tuấn Khải vào những năm hai mươi của thế kỉ XX được truyền tụng rộng rãi, nổi tiếng nhất là những bài hát theo các làn điệu dân ca và những bài thơ theo các thể loại cổ truyền của dân tộc như lục bát, song thất lục bát.
Tác phẩm chính : các tập thơ Duyên nợ phù sinh I, II (1921 và 1923), Bút quan hoài I, II (1924 và 1927), Với sơn hà (1936)...
Hai chữ nước nhà là bài thơ mở đầu tập Bút quan hoài II, sáng tác năm 1926. Bài thơ mượn đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị giặc bắt đem sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi định đi theo cha, nhưng tới biên giới phía bắc, Nguyễn Phi Khanh đã khuyên Nguyễn Trãi nên quay trở về để lo tính việc trả thù nhà, đền nợ nước.
+ Đoạn thơ trích là phần mở đầu của bài thơ, gồm 36 câu thơ, là lời trăng trôi của người cha để lại cho con trước giờ vĩnh biệt. Cảm xúc bao trùm đoạn thơ là nỗi xót xa, đau đớn trước cảnh nước mất nhà tan. Nỗi niềm ấy được thể hiện bởi một giọng thơ lâm li, thống thiết, tràn đầy cảm xúc. Tác giả đã tìm đến thể thơ song thất lục bát vón có nhạc tính phong phú, thích hợp để diễn tả những tiếng lòng sầu thảm hay những nỗi niềm bi phẫn, oán than, làm nên giọng điệu đặc sắc của đoạn thơ.
+ Có thể chia đoạn thơ thành 3 phần :
Phần 1 (8 câu đầu) : tâm trạng của người cha trong cảnh ngộ éo le, đau đớn.
Phần 2 (20 câu tiếp theo) : tình cảnh đau thương tang tóc của đất nước.
Phần 3 (8 câu còn lại) : thế bất lực của người cha và lời trao gửi cho
con.
Đọc - Hiểu văn bản :
Phần 1 :
Tám câu thơ đầu thể hiện tâm trạng của người cha trong cảnh ngộ éo le, đau đớn. Cuộc chia li của hai cha con diễn ra nơi biên giới xa xôi, ảm đạm, heo hút : “Chôn ải Bắc mây sầu ảm đạm”, “bôn bề” chỉ có tiếng “hổ thét chim kêu”. Đây là địa đầu phía bắc của Tổ quốc, và chỉ một vài bước chân nữa thôi là Nguyễn Phi Khanh vĩnh viễn xa lìa đất nước, quê hương. Tâm trạng ấy phủ lên cảnh vật một màu thê lương, tang tóc. Càng não nùng hơn nữa, Nguyễn Phi Khanh phải xa lìa đất nước trong lúc đất nước đang quằn quại dưới gót giày ngoại xâm. “Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu”, câu thơ ấy đâu chỉ miêu tả không gian trong thế đối với “Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm”, nó còn gợi lên hiện tình đau buồn của đất nước. Phải đặt vào ý nghĩa ấy thì mới thấy hết được hoàn cảnh éo le và thấm thìa được tâm trạng của hai cha con :
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước Chút thân tàn lần bước dặm khơi Trông con tầm tã châu rơi Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên
Hoàn cảnh thật éo le : cha bị bắt giải sang Tàu, không mong ngày trở lại ; con muôn đi theo phụng dưỡng cha già cho trọn đạo hiếu, nhưng cha phải dằn lòng khuyên con trở lại để lo tính việc trả thù nhà, đền nợ nước. Cha con li biệt, nước mất nhà tan, những đau đớn xót xa chồng chất. Tình nhà, nghĩa nước đều sầu đậm và đều tột cùng đớn đau. “Hạt máu nóng” và những giọt châu tầm tã, đó là những hình ảnh ước lệ quen thuộc trong thơ văn xưa nhưng trong tình cảnh này, chúng đã diễn tả chân thật tâm trạng của con người. Gạt đi nước mắt tình nhà, cả hai cha con đã biết đặt nợ nước lên trên. Lời khuyên của người cha có ý nghĩa như một lời trăng trôi để lại cho con. Nó thiêng liêng, xúc động và đầy sức truyền cảm không chỉ vì đó là lời tâm huyết cuối cùng của một đời người, mà quan trọng hơn, còn vì đó là lời nói chân thành phát xuất từ một trái tim yêu nước, khiến người nghe phải khắc cốt ghi tâm.
Phần 2 :
Phần 2 gồm 20 câu thơ vẫn là lời của người cha nói về tình cảnh đau thương của đất nước. Nhưng đó cũng chính là những lời thơ bộc bạch tình cảm của tác giả. Nhà thơ nhập vai người trong cuộc - một nạn nhân vong quốc đang đi vào chỗ chết - để miêu tả hiện tình của đất nước và tội ác của quân xám lược, cho nên cảm xúc chân thành, nỗi đau da diết làm xúc động tầm can người đọc. Bài thơ nói đến tình cảnh đất nước rơi vào tay giặc Minh ở thế kỉ XV, nhưng thực ra nào có khác gì tình cảnh đất nước ở những năm 20 của thế kỉ XX đang bị thực dân Pháp cai trị. Nỗi đau mất nước của hai thời đại nào có khác gì nhau ? vẫn là nỗi đau trước cảnh điêu linh tang tóc dưới bàn tay tàn bạo của bọn người “khác giông”. Tình cảm yêu nước của tác giả trong doạn thơ biểu hiện thật phong phú : đó là niềm tự hào về giống Hồng Lạc ở cõi trời Nam xưa nay không thiếu anh hùng hiệp nữ ; là nỗi đau trước vận nước lầm than, giông nòi rên xiết ; là nỗi căm giận giặc ngoại xâm bạo tàn... Có thể nhận ra những nỗi niềm ấy qua những dòng thơ tự sự đan
xen với những lời cảm thán. Bên cạnh những lời thơ kể về tình cảnh của đất nước, xuất hiện rất nhiều những từ ngữ và hình ảnh thơ diễn tả cảm xúc mãnh liệt, sâu sắc {xiết bao, kể sao xiết kể, xé tâm can, ngậm ngùi, khóc, than, thương tâm, khối uất, cơn sầu..}. Nỗi đau ở đây không phải là nỗi đau riêng gắn vói sô' phận cá nhân mà là nỗi đau thiêng liêng, lớn lao, cao cả, gắn với vận nước, cơ đồ, nòi giống, làm kinh động cả đất trời {đất khóc giời than), cả sông núi {Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất - Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu)... Giọng điệu thơ nhờ thế mà trở nên lâm li, thông thiết, xen lẫn nỗi phẫn uất, hờn căm, mỗi dòng thơ là một tiếng than, một tiếng nấc xót xa cay đắng. Giọng thơ tâm huyết đầy bi phẫn này là sở trường của Trần Tuấn Khải, nó có sức rung động lớn, nhất là đôi với những tâm hồn đồng điệu ở thời đại đó.
Phần cuối :
Ớ phần cuối đoạn thơ, người cha nói đến cái thế bất lực của mình (“Cha xót phận tuổi già sức yếu - Lỡ sa cơ đành chịu bó tay - Thân lươn bao quản vũng lầy”) là để trao gửi lại trọng trách “giang sơn gánh vác sau này cậy con”. Bôn câu cuối cùng nói đến sự nghiệp của tổ tông nhằm kích thích, hun đúc ý chí gánh vác giang sơn ở người con. Lời trao gửi vừa đầy sức nặng tình cảm, vừa sôi sục nhiệt huyết cứu nước và tinh thần tự hào dân tộc. c. Tổng kết :
Qua đoạn trích bài thơ Hai chữ nước nhà, Á Nam Trần Tuấn Khải đã mượn một câu chuyện lịch sử có sức gợi cảm lớn để bộc lộ cảm xúc của mình và khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu nước của đồng bào. Tình cảm sâu đậm, mãnh liệt đối với nước nhà, sự lựa chọn thề thơ thích hợp và giọng điệu trữ tình thống thiết của tác giả đã tạo nên giá trị đoạn thơ trích.
ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Tình cảm yêu nước sâu sắc, tha thiết trong bài thơ “Hai chữ nước nhà” (Á Nam Trần Tuấn Khải)
DÀN Ý
Mở bài :
+ Giới thiệu nhà thơ Á Nam Trần Tuâh Khải - cây bút tiêu biểu cho cảm hứng yêu nước kín đáo tha thiết trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX.
+ Hai chữ nước nhà là tâm sự da diết, mượn lời người xưa bộc lộ tình cảm yêu nuớc của nhà thơ.
Thân bài :
Tổng :
+ Bài thơ là lời nhân vật Nguyễn Phi Khanh - kí thác tâm sự yêu nước
+ Diễn biến tâm trạng được diễn tả thống thiết, nhiều cung bậc, tạo nên 107
sự xúc động cho độc giả. Nghệ thuật thơ song thất lục bát điêu luyện.
Phân :
Cảnh ngộ biệt li đầy bi phẫn : Gợi trực tiếp về thực trạng nước mất nhà tan. Nỗi đau của Nguyễn Phi Khanh - cũng chính là niềm bi phẫn của những nguời dân phải chịu nỗi tủi nhục nô lệ.
Cảnh đau thương tang tóc của nước nhà : Suy ngẫm về thời thế tạo cảm xúc đau tức hờn căm. Thảm cảnh của đất nước gắn với nỗi đau nhân dân cho thấy rõ tội ác quân thù gây ra trên sông núi, là thực trạng “nước mất nhà tan”.
Lời chiêu hồn nước thấm đẫm máu lệ : Khơi gợi trách nhiệm trước vận nước nghiêng nghèo. Là “nỗi sầu đau nhường xé tâm can”, có tác dụng thức tỉnh lương tri trước vận nước.
Lời nhắn gửi tha thiết: lời dặn con của Nguyễn Phi Khanh chính là lời kêu gọi kín đáo trách nhiệm của thế hệ thanh niên trước nỗi nhục nô lệ.
Hợp :
+ Tiếng nói tình cảm sâu nặng cũng là lời tỏ bày tình yêu nước nhà. Gắn nỗi đau dân tộc với nỗi đau con người, hoà hợp tình cảm riêng - chung.
+ Giọng điệu thơ phù hợp với tâm trạng, làm rõ thêm vẻ đẹp tâm hồn yêu nước của nhân vật, cũng là của nhà thơ.
c. Kết bài :
Phát biểu cảm nghĩ về giá trị của tình cảm yêu nước trong bài thơ
BÀI VIẾT GỢl ý
Cùng mang tâm trạng bất hòa, bất lực sâu sắc trước thực tại đương thời, nhưng không như Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu thường thả hồn mình theo những ước mơ về chôn Bồng Lai tiên cảnh, Á Nam Trần Tuấn Khải lại trở về quá khứ, lật lại những trang sử hào hùng của dân tộc. Mượn những biểu tượng nghệ thuật bóng gió hay những đề tài lịch sử, thi sĩ họ Trần bộc lộ tất cả nỗi đau mất nuớc, sự căm giận bọn cướp nước cùng bè lũ tay sai, đồng thời khích lệ tinh thần yêu nước của đồng bào và bày tỏ khát vọng độc lập tự do. Đoạn trích mở đầu bài thơ Hai chữ nước nhà đã bộc lộ một cách mãnh liệt tình cảm yêu nước ấy.
Hóa thân vào nhân vật Nguyễn Phi Khanh ngày bị giặc bắt đem sang Trung Quốc đã nén tình nhà mà nghĩ về việc nước, Á Nam Trần Tuâh Khải kín đáo gửi gắm tâm sự yêu nước của mình. Ngày đó, khi “quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa”, người con trai Nguyễn Trãi đang định theo cha sang nơi đất khách quê người phụng dưỡng tuổi già, làm trọn chữ hiếu đành gạt nước mắt trở về lo trả thù nhà, đáp đền nợ nước. Lời cha khuyên con cũng là lời trăng trôi để lại trước giờ vĩnh biệt. Bao trùm bài thơ là nỗi xót xa, đau đớn trước cảnh nước mất nhà tan. Nỗi niềm thầm kín mà mãnh liệt đã 
được thể hiện bởi một giọng thơ lâm li, thông thiết, tràn đầy cảm xúc. Thi sĩ đã tìm đến với thể song thất lục bát - thể thơ truyền thông của dân tộc - vôn có nhạc tính phong phú, vừa gân guốc trang trọng vừa mềm dịu thiết tha, thích hợp để diễn tả tiếng lòng sầu thảm hay nỗi niềm bi phẫn, oán than, làm nên giọng điệu đặc sắc của bài thơ.
Tám câu thơ mở đầu với tâm trạng người cha yêu nước Nguyễn Phi Khanh trong cảnh ngộ éo le đau đớn :
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu
Bốn bề hổ thét chim kêu
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dặm khơi
Trông con tầm tã châu rơi
Con ai, con nhớ lấy lời cha khuyên.
Cuộc chia li của hai cha con diễn ra nơi biên giới xa xôi, ảm đạm, heo hút, chỉ có những đám “mây sầu” như nỗi niềm con người và những âm thanh “bôn bề hổ thét chim kêu” xé toạc tâm trạng. Đã đến địa đầu phía Bắc Tổ quốc... Chĩ vài bước chân nữa thôi, chỉ vài giây ngắn ngủi là Nguyễn Phi Khanh đã vĩnh viễn xa lìa đất nước, quê hương. Cái nhìn ngoái lại như cố’ khắc ghi hình bóng thân quen vào sâu thẳm tâm trí người đi. Buồn thay, hình ảnh cuối cùng của Tể quốc lại là “cõi giời Nam gió thảm đìu hiu”, là cảnh hiện thực đất nước đang quằn quại dưới gót giày ngoại xâm. Có thể hình dung ra từng bước chân nặng nề, chậm chạp của con người.
Hoàn cảnh bi kịch đã đặt hai cha con vào tình thế éo le, nghiệt ngã, buộc phải lựa chọn giữa tình nhà và nghĩa nước. Cha ra đi lần này chẳng mong ngày trở lại, con xót thân cha tuổi già không người chăm sóc nhưng cả hai đã ý thức rất rõ vai trò và nghĩa vụ của mình đôi với dân, với nước. Cảnh nước lâm nguy, cảnh nhà li tán... Tâm trạng con người đã chân thật hóa “hạt máu nóng” và “giọt châu rơi” vôn là những hình ảnh ước lệ quen thuộc trong thơ xưa. Một lời nhắn nhủ giản dị mộc mạc như lời tâm tình khiến người nghe khắc cót ghi tâm : “Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên”. Một lời nói tưởng rất nhẹ nhàng mà chứa cả sức nặng tâm trạng làm lay động lòng người.
Giờ phút chia tay, lẽ ra nỗi đau thân phận sẽ choán hết tâm tư con người. Nhưng không, tấm lòng con người yêu nước chỉ còn lại cảnh đau thương, tang tóc của nước nhà :
Than vận nước gặp khi biến đổi
Để quân Minh thừa hội xâm lăng
Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm họa xương rừng, máu sông !
109
Nơi đô thị thành tung quách vỡ Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con Làm cho xiêu tán hao mòn Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu !
Những câu thơ vẽ nên hiện thực đất nước thời giặc Minh thông trị mà gợi về mấy trăm năm sau, những năm hai mươi của thế kỉ XX đương thời. Lời Nguyễn Phi Khanh hay cũng là tâm tình sâu thẳm từ đáy lòng tác giả. “Giống Lạc Hồng hoàng thiên đã định - Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay - Giời Nam riêng một cõi này” mà nay đã rơi vào tay giặc. Niềm tự hào về lãnh thổ, về chủ quyền dân tộc giờ đây lắng xuôhg, nhường cho nỗi đau mất nước khôn nguôi. Từ cảnh bao quát với “khói lửa bừng bừng” khắp bôn phương trời, vói thảm họa “xương rừng máu sông” đến cảnh quay đặc tả, chi tiết “thành tung quách vã”, “bỏ J)Ợ lìa con” tất cả tạo nên một lời tố cáo đanh thép trong nỗi căm hận không cùng. Những người dân trong hoàn cảnh bi thương mất mát đó có lẽ cũng dễ đồng cảm với nhà thơ trước nền “văn minh khaỉ hóa” mà bọn người “khác giông” mang đến cho dân tộc. Bức tranh đau thương của quê hương Tổ quốc Việt Nam hiện lên mang theo nỗi thương cảm xót xa, đau đớn chân thành của những người vợ xa chồng, những người cha xa con, của toàn thể nhân dân đất Việt :
Thăm vong quốc kể sao xiết kể Trông cơ đồ nhường xé tâm can Ngậm ngùi đất khóc giời than Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu Con ơi ! Càng nói càng đau Lấy ai tế độ đàn sau đó mà ?
Không còn là tiếng lòng của một người dân riêng lẻ nữa rồi. Rõ ràng đây là tiếng non sông vọng về với đồng bào dân tộc khắp mọi miền Tổ quốc. Cả một không gian rùng mình chuyển động thể hiện những tâm tư : đất khóc giời than, khói Nùng Lĩnh xây khối uất, sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu. Đâu chỉ có con người mới biết đau đớn, biết cấm giận, ngay đến núi sông, đất trời cũng quằn quại, giãy giụa, cũng uất ức, sầu thương. Tất cả những tâm trạng của thiên nhiên, của người dân mất nước, mất tự do đã đẩy đến tận cùng cảm giác, kết lại thành một nỗi sầu đau nhường xé tâm can. Từng khối căm uất dâng lên từ khói Nùng Lĩnh cuồn cuộn phủ chụp một màn khói sương mịt mờ khấp non sông, từ dòng đau ăm ắp vật vã, dồn dập của sóng nước sông Hồng.
Những lời kể với bao từ cảm thán, bao hình ảnh gợi cảm mãnh liệt, sâu sắc cắt nghĩa cho một nỗi đau thiêng liêng, lớn lao, cao cả, gắn với vận nước, cơ đồ, nòi giông. Nhà thơ muôh nhân dân thức tỉnh và nhận ra nỗi đau
110
kinh động cả đất trời ấy, một nỗi niềm tha thiết mà trước đó, Phạm Tất Đắc cũng từng thấu hiểu hơn ai hết :
Nên mau mau dậy ngay kẻo muộn Mà xót thương đến chốn Nhị, Nùng [...]
Cảnh như thế tình thỉ như thế Sống mà chi, sống để làm chi Đời người đến thế còn gì !
Nước non đến thể còn gì nước non !
IChiẽu hồn nước)
Mỗi câu thơ là một tiếng than, một tiếng nấc nghẹn ngào, xót xa, cay đắng. Giọng thơ tâm huyết, đầy bi phẫn vô'n là sở trường của Trần Tuấn Khải đã thể hiện một sức rung động lớn, nhất là đốĩ với những tâm hồn đồng điệu lúc bấy giờ.
Trước tình cảnh đất nước đang cơn nghiêng nghèo, người cha nói đến cái thế bất lực của mình :
Cha xót phận tuổi già sức yếu Lỡ sa cơ đành chịu bó tay
Lời nói thốt ra sao mà xót xa, cay đắng ! Nguyễn Phi Khanh đành gửi gắm niềm tin vào con, vào thế hệ mai sau :
Thân lươn bao quản vũng lầy Giang sơn gánh vác sau này cậy con
Chấp nhận “bó tay” để trao gửi nhiệm vụ, trọng trách gánh vác sơn hà cho con, người cha đã đặt vào đó một chữ “cậy” với bao niềm hy vọng, tin yêu. Ân sau lời cha truyền dạy con vào giây phút gặp gỡ cuối cùng là tâm sự thiết tha, sầu kín của chàng trai trẻ Á Nam Trần Tuấn Khải.
Không thể trực tiếp nói lên khát vọng độc lập, tự do, nhà thơ đã đưa người đọc trở về quá khứ hào hùng của dân tộc :
Con nên nhớ tổ tông khi trước Đã từng phen vì nước gian lao Bắc Nam bờ cõi phân mao Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây...
Con nên nhớ ... Ba từ trang trọng gợi nhớ về quãng thời gian bôn nghìn năm dựng nước và giữ nước, gợi về bao tấm gương cao đẹp đã xả thân vì Tổ quốc :
Giời Nam riêng một cõi này Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì
Người thanh niên yêu nước Á Nam đang kể về lời dặn dò của Nguyễn Phi Khanh trước giờ vĩnh biệt hay đang nhắn nhủ bạn đọc đương thời ?
llỉ
Phải, đã bao lần tổ tiên gian lao để giữ vững ranh giới của đất nước, ranh giới Bắc Nam. Hình ảnh “ngọn cờ độc lập máu đào còn dây” phải chăng là một niềm tự hào trước lịch sử oai hùng, là lời nhắc nhở về truyền thống dân tộc ? Và “ngọn cờ độc lập” ấy là mục đích nhà thơ hướng đêh, là niềm khích lệ, thúc đẩy, hun đúc ý chí gánh vác giang sơn của thế hệ trẻ. Lời trao gửi “giang sơn gánh vác sau này cậy con” vừa đầy sức nặng tình cảm, vừa sôi sục nhiệt huyết cứu nước và tinh thần tự hào dân tộc.
Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ mang tựa đề Hai chữ nước nhà. * Nước và nhà là hai khái niệm riêng biệt nhưng gắn chặt với nhau, diễn tả nỗi đau nước mất nhà tan và hoàn cảnh trớ trêu : đất nước lâm nguy, cha con li biệt. Gắn với vận mệnh đất nước, thù nhà chỉ có thể trả xong khi thù nước không còn, khi người con đã đền nợ nước. Lấy nước làm nhà, lấy cái trung, cái nghĩa đối với nước để đền đáp chữ hiếu sâu nặng với cha, âu cũng là một
cách giải quyết “trọn vẹn đôi đường”, nặng tình hợp lí.
Qua Hai chữ nước nhà, nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải đã thể hiện một tình yêu sâu sắc đối với đất nước, nỗi hận khôn nguôi trước tội ác kẻ thù và tha thiết mong mỏi nền độc lập tự do. Bài thơ vang vọng như tiếng hịch truyền của non sông kêu gọi đồng bào qua thể thơ song thất lục bát và giọng điệu trữ tình tha thiết mãi mãi còn đọng lại trong tâm trí mọi người dân yêu nước xưa và nay.
(Bài của học sinh Lê Phan Vỹ Ái)
TƯ LIỆU THAM KHẢO
Nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải sinh vào cuối thế kỉ mười chín, sông đến gần cuối thế kỉ hai mươi. Như vậy tuổi ông gần tròn một thế kỉ, đã trải qua thời đất nước phải sông dưới ách thống trị của thực dân Pháp cho đến lúc được sông tám năm trong niềm vui đất nước được hoàn toàn độc lập, thông nhất. Nét chủ đạo của thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải là tinh thần yêu nước thiết tha. Ông "đứng hẳn về dòng thơ yêu nước" như lời nhận định của các nhà phê bình lí luận văn học.
...Nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải sông gần tròn một thế kỉ, đã để lại những tác phẩm tiêu biểu cho một tầng lớp trí thức văn nghệ sĩ yêu nước đi từ nỗi u sầu triền miên trong thời mất nước đến niềm vui rạng rỡ khi Tổ quốc đã hoàn toàn độc lập thôhg nhất. Sự chuyển biến tâm tư có tính lịch sử đó ghi đấu ấn không phai mờ trong thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải. Ông đã đóng góp một phần cực kì quan trọng vào_gia tài văn học Việt Nam.
(Nhà văn Trần Lê Văn - Danh nhân Nam Định)